Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
ra đời đã tác động, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của
các thuộc địa; làm cho các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế hết sức lo
sợ, tìm mọi cách chống phá hòng thủ tiêu Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam
Á. Mỹ công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay lại xâm lược Việt Nam và Đông Dương.
Đế quốc Anh xuất phát từ quyền lợi thực dân và theo quỹ đạo của Mỹ cũng ra sức ủng
hộ ý đồ của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương.
Nhưng trên thực tế chính quyền cách mạng
non trẻ của ta phải đối phó với muôn vàn khó khăn, đứng trước tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”. Bên trong, “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc nội phản hoành hành.
Bên ngoài, giặc ngoại xâm liên tục tấn công. Từ vĩ tuyến 16 trở ra là 20 vạn
quân Tưởng, từ vĩ tuyến 16 trở vào có hơn 1 vạn quân Anh và hơn 6 vạn quân Nhật
cùng nhiều đảng phái phản động lăm le lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, lập lại chính quyền tay sai và cướp nước ta lần nữa. “Giặc đói”, “giặc dốt”,
“giặc ngoại xâm”đang đe dọa vận mệnh dân tộc ta.
Trong khi đó, với dã tâm cướp nước ta một
lần nữa, ngày 23/9/1945 được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây
hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, rồi mở
rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc Bộ, đánh chiếm
Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương, gây nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.
Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố
chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân, Trung ương Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm các biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình,
giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Để tranh thủ thời gian củng cố lực
lượng cách mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi thì chúng ta tạm thời
hoà hoãn với quân Tưởng để rảnh tay đối phó với quân Pháp, khi thì tạm thời hoà
hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi đất nước. Chúng ta đã
chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai
dân tộc, giữ độc lập tự do cho Tổ quốc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946,
sau đó ký Tạm ước ngày 14/9/1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới nguyên
thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hợp quốc, nêu rõ thiện
chí hoà bình, mong mỏi Liên hợp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt
Nam để duy trì hoà bình. Đồng thời, Người liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc
hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp người cầm đầu Pháp ở Đông Dương,
tìm cách cứu vãn hoà bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu. Nhưng giới cầm quyền
thực dân đã khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hòa bình của chúng ta.
Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp
càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí hòa bình của Việt Nam, trong các ngày 15
và 16/12/1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17/12/1946,
chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu
ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Ngày 18/12/1946, tướng Môlie gửi cho ta hai tối
hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng
ngại trên các đường phố, đòi để cho chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội.
Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu đó không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì
quân Pháp sẽ chuyển sang hành động chậm nhất là sáng ngày 20/12/1946.
Vậy là kẻ thù đã đặt dân tộc Việt Nam
trước hai con đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh
đến cùng để giành lấy tự do và độc lập. Tình thế đó buộc Đảng, Chính phủ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và nhân dân ta không có lựa chọn nào hơn là cầm vũ khí đứng lên chiến
đấu, phát động cuộc kháng chiến toàn quốc để bảo vệ độc lập dân tộc.
Đúng 20 giờ ngày 19/12/1946, tiếng súng kháng chiến toàn quốc vang
rền, bắt đầu từ mặt trận Hà Nội, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh được truyền thanh khắp cả nước. Đây là một lời hịch cứu nước kết
tinh ý chí sắt đá và trí tuệ sáng suốt của Hồ Chí Minh và của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân tộc ta quyết tâm đứng lên chiến đấu vì độc lập của dân tộc, vì
tự do, hạnh phúc của nhân dân. Văn kiện lịch sử quan trọng này chỉ có 205 chữ,
song nó đã phác thảo ra những nét cơ bản về đường lối của kháng chiến chống
thực dân Pháp của dân tộc ta là: toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến và
dựa vào sức mình là chính. Sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi khắp cả nước:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải
nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người
già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai
có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải
ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến
giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với
một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!
Đó là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí
quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta bước vào cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến, là kết tinh trực tiếp
của Quyết định đúng đắn, sáng suốt. Trong lời kêu gọi lịch sử này, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã vạch rõ nguyên nhân của cuộc kháng chiến. Chỉ ra dã tâm xâm lược
muốn đặt ách nô lệ lên dân ta một lần nữa của thực dân Pháp. Người nêu rõ lập
trường của dân tộc trước sự lấn tới và dã tâm xâm lược của thực dân
Pháp: ''Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần
nữa''.
Người đã nêu cao tinh
thần yêu nước, quật khởi của dân tộc ta, quyết liệt hành cuộc kháng chiến
chính nghĩa để dành độc lập tự đo: ''Không chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...
Trong giờ phút Tổ quốc
lâm nguy, Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ cả dân tộc
ta quyết tâm một lòng một dạ đứng lên đánh quân xâm lược. Tinh thần quyết
chiến quyết thắng của ngày Toàn quốc kháng chiến đã liên tục được phát huy
trong hơn ba ngàn ngày kháng chiến, chính là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến
thắng lợi Điện biên lịch sử huy hoàng.
Những bài học kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của ngày Toàn quốc kháng
chiến với đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nghiên cứu, học tập, ôn lại
những hoạt động quan trọng, đúng đắn, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí minh với
Ngày toàn quốc kháng chiến, thật sự là một việc làm cần thiết và có
nhiều ý nghĩa về lý luận và thực tiễn đó là:
Một là: Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã quyết định thời điểm phát động cuộc kháng chiến
toàn quốc đúng lúc, đúng thời cơ.
Khi không còn đường nào khác. Khi đã không còn một chút hy vọng
nào cứu vãn hoà bình do dã tâm xâm lược và sự ngoan cố của kẻ thù đế quốc thì
phải chủ động vùng lên chống lại chúng. Muốn vậy, phải luôn luôn tranh thủ
thời gian, chủ động chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, luôn luôn sẵn sàng và khi
đã hạ quyết tâm kháng chiến thì phải chủ động và kiên quyết không ngừng thế tấn
công kẻ thù xâm lược.
Hai là: khẳng định quyết tâm sắt đá bảo vệ độc lập, tự
do, giải phóng dân tộc và những mục tiêu cơ bản của cách mạng nước ta,
“Dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Kiên trì kháng chiến không nao núng trước sức mạnh và mọi sự uy
hiếp của kẻ thù. Nêu cao ngọn cờ chủ nghĩa yêu nước, tiếp nói và phát huy
truyền thống kiên cường chống ngoại xâm của dân tộc Phát huy sức mạnh đoàn kết
dân tộc và tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
Ba là: sớm hoạch định đường lối kháng chiến và kiến quốc
đứng đắn, sáng tạo.
Để có quyết định Kháng chiến toàn quốc kịp thời đúng lúc, thì
trước đó, từ ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị “Công việc khẩn
cấp bây giờ” nêu rõ chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc và đường lối
Trường kỳ kháng chiến. Ngày 12/12/1946, một tuần trước ngày Toàn quốc kháng
chiến, Thường vụ Trung ương Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra bản chỉ thị ''Toàn dân kháng chiến". Trong đó, đã nêu ra mục đích
cuộc Trường kỳ kháng chiến của dân tộc ta. Nêu rõ: Tính chất, Chính sách, Cách
đánh, Chương trình, kháng chiến, Cơ quan chỉ đạo kháng chiến, Những điều răn
trong khi kháng chiến, Các khẩu hiệu chỉ đạo hành động trong kháng chiến. Đường
lối kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khơi dậy và phát huy
đầy đủ sức mạnh của dân tộc, khai thác động viên được sự ủng hộ và giúp đỡ quốc
tế cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta.
Bốn là: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sáng tạo
một phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng – chiến tranh toàn
dân.
Với khoa học, nghệ thuật quân sự độc đáo tổ chức được toàn dân
kháng chiến, cả nước đánh giặc, làm giảm hiệu lực hoặc vô hiệu hoá mặt mạnh và
sở trường tác chiến của đối phương là thực dân Pháp. Chúng có một đội quân xâm
lược nhà nghề với các phương tiện chiến tranh hiện đại hơn hẳn lực lượng võ
trang của chúng ta, chúng muốn đánh nhanh thắng nhanh nhưng cuối cùng đã bị
thất bại thảm hại.
Chúng ta thêm tự hào về
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng ta.
Chúng ta thêm kiên trì sự nghiệp đổi mới với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội bên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tin tưởng và tự hào vì thực tiễn lịch sử 70 năm qua chứng
tỏ rằng nhân dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn. Nhân dân ta rất anh hùng, có
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng và đường lối đúng đắn của Đảng thì khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Sự nghiệp cách mạng, đổi mới nhất
định sẽ thành công.
Kỷ niệm 70 năm Ngày
Toàn quốc kháng chiến là dịp để chúng ta ôn lại và phát huy chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm vượt qua khó khăn,
thách thức thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét