Sau cách mạng tháng tám 1945, thực dân Pháp tìm
mọi cách thực hiện dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa.
Bội ước hiệp định sơ bộ 6/3/1945 và thoả ước
19/4/1945, thực dân Pháp ráo riết tăng cường lực lượng và đến tháng 11/1946, số
quân của chúng đã lên tới 10 vạn. Chúng lần lượt cho quân đổ bộ trái phép vào
Đà Nẵng, Đồ Sơn, Cát Bà đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và chuẩn bị kế hoạch
đánh vào cơ quan đầu não của ta ở thủ đô Hà Nội.
Ngày 18 và 19/12/1946, hội nghị mở rộng Ban chấp
hành Trung Ương Đảng họp khẩn cấp ở Vạn Phúc, Hà Đông quyết định phát động cả
nước kháng chiến và chỉ ra đường lối kháng chiến lâu dài.
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến. Người nói:
“Chúng ta muốn hoà bình, chúng bắt chúng ta nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vì chúng
quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên. Bất kỳ đàn
ông, đàn bà, bất kỳ ngưới già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái,
dân tộc, hễ là người Việt thì phải đứng lên chống thực dân Pháp. Ai có súng cầm
súng, ai có gươm cầm gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân giờ cứu nước
đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước…”
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Người là một trong những văn kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt
Nam. Điều kỳ tuyệt là cho đến tận bây giờ, âm vang của những ngôn từ ngắn nhưng
có sức sống mãnh liệt của nó vẫn làm xúc động trái tim của hàng triệu con người. 198 chữ của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là một kỳ văn của sức mạnh, một tuyệt
bút bất tử với thời gian. Đó thực sự là bản Tuyên ngôn thứ hai của nền độc lập.
Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ sự đắng cay, tủi nhục của kiếp sống nô
lệ, chính vì vậy, Người đã đoan quyết bằng ý chí và tâm huyết của 20 triệu con
người rằng: Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.
Đó là thông điệp của trái tim, xuất phát từ lẽ sống
còn mà không một người dân Việt Nam nào không hiểu rõ: Độc lập, tự do còn quý
hơn cả máu của chính mình. Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã
truyền máu, tiếp lửa cho tinh thần bất khuất của dân tộc.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 22- 12- 1946 và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh là ba
văn kiện xác định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta.
Điều làm cho không ít nhà lịch sử quân sự phải bất ngờ
là trong một văn kiện ngắn như Lời
kêu gọi, Hồ Chủ tịch vẫn trình bày một cách vừa đầy đủ, vừa sáng rõ toàn bộ
đường lối kháng chiến của Đảng ta. Tinh thần tự lực cánh sinh, độc lập, tự chủ
là nguyên tắc thứ nhất: Ai cũng phải ra sức cứu nước.
Xuất phát từ so sánh lực lượng mà phần bất lợi là thuộc
về ta, Hồ Chủ tịch kêu gọi cuộc kháng chiến của ta nhất thiết phải tuân thủ
nguyên tắc thứ hai, đó là kháng chiến toàn dân. Nguyên tắc thứ ba là kháng chiến
toàn diện: Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc.
Hồ Chủ tịch đã tiên định cuộc kháng chiến sẽ lâu dài,
nhưng chắc chắn sẽ thành công. Đây cũng là nguyên tắc thứ tư, kháng chiến trường
kỳ: Dù phải gian lao kháng chiến, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Đường lối kháng chiến suốt chín năm hào hùng được
trình bày đầy đủ trong một văn kiện dài chưa đến 200 chữ, đó là kỉ lục của sự mẫn
tiệp. Hơn thế nữa, áng văn lịch sử đó còn tiếp thêm sức mạnh và niềm tin vô bờ
bến cho nhiều triệu con người, là một kỉ lục về năng lực truyền cảm, uy lực cuốn
hút của một thiên tài.
Những lời kêu gọi đặc biệt ấy đã vang lên trong một
quá khứ rất xa, nhưng cho đến nay vẫn còn vẹn nguyên tinh thần và mong ước, chứng
tỏ sức sống thực tiễn chân lí bất hủ của nó.
Có thể nói, ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946
đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta, bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận chính,
tính toán thời điểm nổ súng chính xác, biến bị động thành chủ động, tạo nên thế
trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân quân địch hai tháng, để cả
nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát động toàn quốc kháng
chiến ngày 19/12 giữa Thủ đô là một trường hợp hiếm thấy trong lịch sử, thể
hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm
và sáng tạo
70 năm đã trôi qua nhưng khí thế hào hùng của
những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã trở thành ngày lịch sử, là dấu son chói
lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ. Trải qua bao biến cố thăng trầm của thời gian, nhưng giá trị lịch sử của
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách
mạng của toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ, hiệu triệu quốc dân đồng bào kề vai
sát cánh, chung sức đồng lòng, đoàn kết nhất trí đánh giặc, giữ nước, giành lại
độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc.
Ngày nay, Lời kêu gọi thiêng liêng của Bác vẫn mãi
giữ nguyên tính thời sự, đó là giá trị của niềm tin tất thắng, là ý thức sâu
sắc giá trị độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sự nghiệp xây dựng CNXH còn
nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhất định chúng ta sẽ thành công, nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh sẽ ngày càng khẳng
định thế và lực quan trọng trong khu vực và trên trường quốc tế.
Kỷ niệm 70 năm ngày toàn quốc kháng chiến, đây là
dịp để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ôn lại những bài học sâu sắc của
lịch sử, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân, đồng sức chung lòng tạo
nguồn động lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét