Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2022

NVD38 - Đúng hay sai trong đánh giá của cơ quan ngoại giao nước ngoài

 

Gần đây, liên quan đến đối tượng Phạm Thị Đoan Trang bị bắt giữ và xét xử do có những hành động vi phạm pháp luật nhiều lần về tuyên truyền, hướng dẫn, kích động các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, nhiều cơ quan ngoại giao, tổ chức đã có những đánh gia thiếu khách quan. Việc đánh giá này cần được nhìn nhận đúng, sai một cách rõ ràng.

Điển hình như: Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra “tuyên bố báo chí”, lên án và kêu gọi trả tự do cho Phạm Thị Đoan Trang. Trong tuyên bố còn cho rằng, hành vi phạm pháp của Trang thể hiện “nỗ lực thúc đẩy nhân quyền và quản trị tốt ở Việt Nam”. Trong khi đó, một số tổ chức lấy mác “quốc tế” cũng đưa ra các “giải thưởng nhân quyền” và nhắm vào Phạm Thị Đoan Trang để tô vẽ hình tượng, trao giải, ví dụ như: tại Genève, Thụy Sĩ, giải thưởng nhân quyền có tên Martin Ennals cũng ra thông cáo “xướng tên nhà báo Phạm Thị Đoan Trang - nhà báo, nhà hoạt động xã hội người Việt Nam, vừa bị kết án 9 năm tù hồi tháng 12/2021” với mô tả: “Đoan Trang được vinh danh vì các nỗ lực từ hơn 10 năm nay trong việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin của người dân. Ban tổ chức giải thưởng nhấn mạnh các sáng kiến của cô, bao gồm việc lập ra trang mạng thông tin nhân quyền và luật pháp Luật Khoa tạp chí, Nhà xuất bản Tự Do”.

Thực chất, dù tổ chức trao giải khác nhau nhưng đều có mẫu số chung khi cùng copy từ một khuôn mẫu như những gì mà Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW) hay Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF), tổ chức Bảo vệ ký giả (CPJ) đưa ra. Trước đó, các tổ chức này đưa ra các thông cáo báo chí vu cáo Việt Nam là một trong những nước giam giữ nhiều nhà báo nhất thế giới. Thông cáo của CPJ cho rằng, Việt Nam vi phạm tự do báo chí nghiêm trọng và nêu yêu sách đòi Việt Nam phải “trả tự do cho các nhà báo”! Những cái tên được CPJ xướng lên làm “ví dụ điển hình” cho các nhà báo bị giam giữ như Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Thị Đoan Trang, Trương Duy Nhất… Thực ra đây là luận điệu tái lặp của CPJ, RSF… khi có những quy kết không đúng về tình hình nhân quyền của Việt Nam nói chung cũng như tự do báo chí nói riêng.

Như thông cáo trên, chỉ cần nhìn vào những cái tên trên đủ để thấy rằng CPJ xuyên tạc, bóp méo vấn đề quyền con người ở Việt Nam như thế nào. Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Thị Đoan Trang… dù trước đây từng có giai đoạn hoạt động tại một số cơ quan báo chí, song do vi phạm pháp luật, họ đã bị kỷ luật, thay đổi công việc, ở thời điểm bắt giữ thì họ không còn là những nhà báo hay phóng viên như CPJ công bố. Trái lại, đó đều là những đối tượng vi phạm pháp luật, bị bắt giữ và xét xử theo các quy định của pháp luật Việt Nam.

Như vậy, chúng ta thấy dù giải thưởng và thông cáo báo chí được đưa ra với danh nghĩa của cơ quan Nhà nước là Bộ Ngoại giao nhưng nội dung trong nhìn nhận, đánh giá cũng sai lệch, tương tự với sự “tôn vinh giải thưởng” và thông cáo báo chí mà các tổ chức như RSF, CPJ hay HRW đưa ra. Dễ nhận thấy, sự đánh giá về hành vi của Phạm Thị Đoan Trang với danh nghĩa nhà báo với vấn đề nhân quyền, sự chỉ trích phiên toà hay “nền dân chủ” trong các thông cáo này dường như vẫn là các bản copy của nhau. Đây là điều không nên. Bởi lẽ, những tổ chức như RSF, CPJ hay HRW đã được nhận diện rõ về động cơ, mục đích thù địch, chống phá Việt Nam, thường xuyên lấy các vụ việc phạm pháp ở Việt Nam để chụp mũ dân chủ, nhân quyền, tự do báo chí, làm nguyên cớ để kích động chống phá đất nước

 

.

NVD38 - CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG THÔNG TIN SAI SỰ THẬT VỀ TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19 Ở VIỆT NAM

 

Hiện nay lợi dụng dịch bệnh Covid-19 ở Việt Nam đang bùng phát trở lại, các đối tượng cơ hội chính trị, phản động trong và ngoài nước phát tán nhiều bài viết có nội dung xuyên tạc công tác phòng chống dịch của Việt Nam; vu cáo các cơ quan chức năng “kiểm soát kém” dẫn đến dịch bùng phát.

Mục đích của các đối tượng này là gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân, dẫn đến tình trạng bất ổn, chia rẽ trong nội bộ, có nguy cơ làm mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Người dân chỉ cần lơ là, mất cảnh giác khi đăng tải, chia sẻ hoặc bình luận những thông tin chưa được kiểm chứng, thông tin không chuẩn xác, vô tình đã tiếp tay cho các thế lực thù địch, gây hoang mang dư luận về tình hình dịch bệnh Covid-19.

Cụ thể đó là lợi dụng vào việc Công an TP Hồ Chí Minh ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “Lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” liên quan đến Hội thánh truyền giáo Phục Hưng, các đối tượng cơ hội chính trị, phản động trong và ngoài nước đã tán phát nhiều bài viết, bình luận trên các trang mạng phản động có nội dung phản đối cơ quan chức năng bắt giam “người vô tội”, xuyên tạc tình hình, cho rằng Hội thánh truyền giáo Phục Hưng chấp hành nghiêm các quy định về phòng chống dịch COVID-19, việc khởi tố hội giáo này chỉ là “vật tế thần”.

Điển hình như: Đối tượng Hiền Minh tán phát bài “Đại dịch, bản năng đổ lỗi và những cuộc săn dê tế thần”; đối tượng Mỹ Hằng tán phát bài”COVID-19: Chính quyền vội vàng khi khởi tố vụ án liên quan đến Hội thánh truyền giáo Phục Hưng”; đối tượng Minh luật tán phát bài “Khởi tố Hội thánh truyền giáo Phục Hưng là sai luật và thể hiện sự hà khắc với tôn giáo”…

Có thể thấy rằng sự xuất hiện, lan truyền các bài viết, các thông tin không đúng sự thật đã và đang tác động không nhỏ đến tâm lý, đời sống cộng đồng. Nhất là trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp như hiện nay, sự hoảng hốt, lo sợ thái quá chứa đựng nguy cơ gây mất kiểm soát và có thể dẫn đến những hậu quả rất khó lường. Thực tế thời gian qua vì những thông tin thiếu chính xác như vậy không ít tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, đã phải gánh chịu hậu quả nặng nề. Do đó trong lúc này, người dân cần hết sức bình tĩnh, hợp tác với chính quyền và cơ quan chức năng, khai báo y tế, thực hiện nghiêm các quy định phòng, chống dịch bệnh, hạn chế tụ tập đông người.

Dịch bệnh diễn biến hết sức phức tạp và lây lân nhanh trên diện rộng, nhưng chúng ta đã thực hiện rất tốt các khâu từ phát hiện, truy vết, khoanh vùng và chữa trị, cũng như ổn định tình hình nhân dân, nghiêm túc thực hiện 5K; quán triệt sâu sắc tinh thần “chống dịch như chống giặc”. Đến nay dịch bệnh cơ bản đã được kiểm soát, nhất là đã khoang vùng được các ổ dịch lớn tại nhiều tỉnh, thành; và vẫn đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội phù hợp trong tình hình mới. Người dân cần tỉnh táo, thận trọng khi tiếp nhận các thông tin trên mạng xã hội, đồng thời tuyệt đối không chia sẻ những thông tin chưa được kiểm chứng; cảnh giác trước những thông tin xấu độc của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, nhận diện rõ âm mưu thủ đoạn phá hoại của chúng; tin tưởng tuyệt đối vào công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 ở Việt Nam trong thời gian tới dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo Đảng và Nhà nước ta./.

 

NVD38 - Thôi trò đổ vạ cho Chính phủ thông qua luận điệu xuyên tạc về giá xăng

 

Khi nguồn cung xăng dầu trong nước thiếu hụt dẫn đến giá đầu vào tăng và xăng bán ra bị khan hiếm, Chính phủ phải điều chỉnh tăng giá xăng phù hợp theo thị trường. Thế nhưng động thái này lại bị các đối tượng xuyên tạc thành Chính phủ lấy tiền của dân.

Nước ta, từ cuối năm 2021 khi giá dầu quốc tế đang tăng, Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn vốn chiếm thị phần nguồn cung xăng dầu tới 35% cả nước đột ngột tiết giảm công suất từ 105% về 80%, hủy nhập 2 tàu dầu thô và cảnh báo dừng hoàn toàn hoạt động do nguyên nhân về tài chính. Điều này khiến cho nguồn xăng trong nước bị khan hiếm, giá nhập tăng cao. Tại các cửa hàng xăng dầu cho biết nhiều cửa hàng càng bán xăng càng lỗ (lên tới 300-500 đồng một lít) vì giá nhập quá cao trong khi giá trần phải chờ Nhà nước điều chỉnh. “Việc “đóng cửa”, hay treo biển “giảm thời gian bán hàng” có thể hiểu, thậm chí thông cảm được, cho dù đây là phản ứng rất tiêu cực với nền kinh tế, là cách đối phó trước sự khan hiếm và không còn lợi nhuận, thậm chí lỗ.”

Trong một bài viết được Việt Tân đăng lại nhằm phản ánh về thông tin này, Phạm Minh Vũ đã xuyên tạc hoàn toàn sự việc. Vũ cho rằng, cây xăng không bán chẳng qua là găm hàng chờ tăng giá, là kiểu bán hàng của “mafia”. Thậm chí Vũ còn xuyên tạc rằng các cây xăng là sân sau của quan chức nên làm ăn chộp giật. Vũ còn bình luận phiến diện về các loại thuế, phí trong giá xăng, cho rằng đó là hành vi móc túi dân, và ngang ngược “yêu cầu chính phủ Việt Nam hãy bỏ ngay 3 loại thuế, phí vô lý này”.

Thực tế, Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết liệt, nói rõ “xăng dầu là mặt hàng chiến lược, đặc biệt quan trọng, nhạy cảm, dễ ảnh hưởng đến tâm lý người dân, tác động trực tiếp đến ổn định kinh tế vĩ mô, do đó phải được quản lý, điều tiết một cách khoa học, chặt chẽ.” Việc đầu tiên là đi thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm “một số cửa hàng bán lẻ xăng dầu đóng cửa, không bán hàng, ảnh hưởng đến sản xuất, sinh hoạt của nhân dân”. Và việc thứ hai là Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan rà soát các quy định về thuế, phí, tính toán lại mức chi phí kinh doanh định mức, lợi nhuận định mức để điều chỉnh giá xăng nhằm bảo đảm quyền lợi cho doanh nghiệp. Có thể thấy đây việc bắt buộc để phù hợp với tình hình thực tế và quy luật thị trường.

Để đảm bảo hỗ trợ nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong bối cảnh họ đang nỗ lực hồi phục sản xuất – kinh doanh sau thời kỳ dịch bệnh thì ngay từ tháng 11/2021, Bộ Tài chính cũng đã tiếp thu ý kiến của nhiều chuyên gia và nghiên cứu đề xuất để giảm thuế phí nhằm kìm đà tăng của giá xăng.

Là một nước đang phát triển, thu nhập người dân Việt Nam mới chỉ đạt mức trung bình thấp, trong khi nhu cầu đầu tư, phát triển, xây dựng hạ tầng còn rất cao. Chính vì thế, Chính phủ đã ban hành các chính sách thuế và phí nhằm đảm bảo có đủ nguồn lực đầu tư công, và đều được tính toán hợp lý. Đơn cử như đối với xăng thì xăng nhập vào Việt Nam sẽ phải chịu các khoản thuế như: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế bảo vệ môi trường, phần trích quỹ bình ổn giá. Trong đó thuế giá trị gia tăng đã giảm về gần 0%, còn quỹ bình ổn vốn là để tiết kiệm cho điều tiết giá xăng, thuế môi trường và thuế tiêu thụ đặc biệt thì đương nhiên phải có.

Bài viết của Phạm Minh Vũ về kinh tế, diễn giải về thuế, phí là một bài viết phiến diện và cũng nửa mùa. Số liệu thì đi cắt cóp từ báo chí trong nước, nhưng những sự thật khách quan mà báo chí ghi nhận thì lại không được Vũ ngó ngàng tới. Vì vậy bài viết của Vũ hoàn toàn vô giá trị vì thiếu thông tin, trong khi quá thừa những luận điệu cảm tính và sặc mùi xuyên tạc

 

NVH38 - Việt Nam thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa không chấp nhận đa nguyên, đa đảng

 

Bước ngoặt của cách mạng Việt Nam được đánh dấu từ khi có Đảng. Đảng ra đời đã lãnh đạo cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhận thức rõ về vai trò lãnh đạo của Đảng, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc, bác bỏ nhằm lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng.

Trong thời gian qua, các thế lực thù địch đưa ra rất nhiều luận điệu xuyên tạc của chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm chống Đảng, Nhà nước ta như: “Muốn Việt Nam thực sự dân chủ và phát triển cần thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ”, “không có dân chủ trong chế độ một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền”... Đó là những luận điệu phản khoa học nhằm  “tấn công trực diện”, thường xuyên vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Mục đích của các thế lực thù địch là thông qua hoạt động phá hoại tư tưởng để tác động, nhằm thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tính tất yếu về sự ra đời và lãnh đạo cách mạng của Đảng, từ đó lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào con đường chống lại Đảng, hình thành nên các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập tại Việt Nam, tiến tới thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng.

Có thể thấy rằng, đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm, bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Với những người có nhận thức chính trị không vững vàng có thể dễ dàng bị đánh lừa bởi luận điệu này, từ đó cổ súy cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Việc nhận diện đầy đủ và đấu tranh phản bác, thuyết phục, vạch rõ những điểm giả dối, phản cách mạng, phản khoa học trong luận điệu “đa nguyên, đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” là vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Để đấu tranh, phê phán luận điệu sai trái đó chúng ta cần nắm rõ các luận cứ sau:

Thứ nhất, Việt Nam hiện nay không cần thiết phải thực hiện đa nguyên chính trị đa đảng đối lập. Thực tế đã khẳng định: Ở Việt Nam, không có lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Thứ hai, Dân chủ, phát triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng và đa nguyên, đa đảng không đồng nghĩa với sẽ có dân chủ và phát triển.

Mức độ dân chủ hay không dân chủ của chế độ chính trị một quốc gia không phụ thuộc vào số lượng các đảng chính trị, không phụ thuộc vào việc có áp dụng hay không áp dụng chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, mà nó phụ thuộc vào bản chất của chính đảng cầm quyền: Đảng cầm quyền đó đại diện cho quyền và lợi ích của ai và phục vụ, bảo vệ quyền và lợi ích cho số đông hay số ít trong xã hội. Cho nên, ở quốc gia nhất nguyên, một đảng, nhưng nếu đảng cầm quyền đó đại diện cho quyền và lợi ích của đa số người dân, phục vụ và bảo vệ cho số đông thì quốc gia đó vẫn dân chủ hơn các quốc gia dù đa nguyên, đa đảng mà ở đó các đảng không đại diện và bảo vệ quyền lợi cho đông đảo người dân trong xã hội.

Thứ ba, ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta luôn đề cao thực hành dân chủ.    

Thứ tư, xã hội ổn định bền vững và sự tăng trưởng, an sinh xã hội được đảm bảo – đây là vấn đề cốt lõi của bất kỳ quốc gia nào.

Việt Nam hiện nay, dưới vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đang đáp ứng tốt vấn đề này. Với chế độ một đảng lãnh đạo, Việt Nam có điều kiện để giữ vững ổn định chính trị, được đánh giá là một trong những nước có sự ổn định chính trị cao trên thế giới. Đây là một điểm sáng và là yếu tố quan trọng trong việc thu hút nguồn đầu tư nước ngoài. Việt Nam hiếm khi xảy ra bất ổn chính trị hay khủng bố, bạo loạn đường phố, đây là điều thường xảy ra ở quốc gia đa đảng do sự cạnh tranh quyền lực.

Với những luận cứ nêu trên, chúng ta hoàn toàn khẳng định rằng Việt Nam thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa không cần đa nguyên, đa đảng. Và với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của nhân dân dưới sự lãnh đạo sáng suốt tài tình Đảng Cộng sản Việt Nam, chắc chắn đất nước chúng ta tiếp tục phát triển nhanh, bền vững trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội./.

 

 

 

 

 

 

 

NVH38 - DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN VÀ VIỆC LỢI DỤNG DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN ĐỂ CHỐNG PHÁ VIỆT NAM

 

Dân chủ, nhân quyền là phạm trù chính trị, pháp lý, lịch sử, văn hóa, xã hội gắn liền với mỗi hình thái kinh tế - xã hội, với mỗi chế độ chính trị và mỗi quốc gia khác nhau, nên có nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau về các phạm trù này. Do đó, cần phải hiểu đúng về dân chủ, nhân quyền để kiên quyết đấu tranh với việc áp đặt quan điểm, tư tưởng về dân chủ, nhân quyền của quốc gia này đối với quốc gia khác, cũng như việc lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam.

Các tư tưởng về dân chủ và vấn đề áp đặt vô căn cứ giá trị dân chủ tư sản với các nước khác

Dân chủ là một khái niệm dùng để chỉ quyền làm chủ của nhân dân, phản ánh mối quan hệ giữa nhân dân và quyền lực nhà nước, trong đó quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ là một phạm trù chính trị, lịch sử, văn hóa, xã hội và luôn gắn với sự tồn tại của các kiểu nhà nước trong những điều cụ thể nhất định. Bởi vậy, khái niệm “dân chủ” có mối quan hệ chặt chẽ với khái niệm “chế độ dân chủ” và “nền dân chủ”. “Chế độ dân chủ” dùng để chỉ thiết chế xã hội nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân; còn khái niệm “nền dân chủ” dùng để chỉ hệ thống các thiết chế được xác lập và thực thi trong hiện thực xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội đó.

Biểu hiện của một chế độ dân chủ thường bao gồm bốn yếu tố chính: Có một hệ thống chính trị mà việc lựa chọn và thay thế các chính phủ thông qua bầu cử tự do và công bằng; bảo đảm sự tham gia tích cực của công dân trong chính trị và đời sống dân sự; bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo đảm pháp quyền, trong đó tất cả mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không ai đứng trên luật pháp. Có 2 phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, dân chủ là một phạm trù có quá trình phát sinh, phát triển rất phức tạp. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, mỗi thời đại, mỗi quốc gia, dân tộc, dân chủ luôn có những nét đặc trưng trên cơ sở kế thừa biện chứng những điểm chung được nêu ở trên.

Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, xét về bản chất chính là dân chủ của giai cấp chủ nô. Trong chế độ phong kiến, các tư tưởng và mô hình dân chủ bị hạn chế, cấm đoán bởi chế độ tập quyền chuyên chế khi quyền lực tuyệt đối nằm trong tay một đấng quân vương. Nền dân chủ tư sản được xác lập do cuộc cách mạng tư sản dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản với các giai cấp khác lật đổ chế độ phong kiến. Vì vậy, những thành tựu giành được của nền dân chủ tư sản không chỉ do riêng giai cấp tư sản tạo ra, mà là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động, kết quả của quá trình nhận thức và tất yếu của tiến bộ xã hội. Những tuyên bố về tự do, bình đẳng, bác ái, tư tưởng về nhà nước pháp quyền và xã hội công dân là những nội dung đầu tiên của dân chủ tư sản. Tuy nhiên, với bản chất của xã hội tư sản, nền dân chủ tư sản không tránh khỏi những hạn chế khách quan.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của nhân dân lao động (dân chủ nhân dân) được thể hiện trong mọi lĩnh vực chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội. Nó được hình thành và phát triển bằng toàn bộ những giá trị văn hóa chân thực của nhân loại. Xã hội càng phát triển, điều kiện vật chất, trí tuệ, tinh thần của con người ngày càng phong phú thì xu hướng dân chủ càng mở rộng và được khẳng định mạnh mẽ.

Ở Việt Nam, dân chủ cũng có quá trình hình thành và phát triển tuân theo quy luật chung. Hiện nay, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Dân chủ là phương thức, nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý nhà nước và xã hội, trong đó mọi thành viên được tôn trọng, bình đẳng trong việc tham gia quyết định các vấn đề của đất nước, xã hội, cộng đồng. Công dân được tạo mọi điều kiện để phát huy các quyền tự do, dân chủ của mình. Cơ sở của dân chủ xã hội chủ nghĩa là các quyền tự do của cá nhân, tổ chức trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, nhưng không có tư tưởng tự do vô giới hạn mà phải trong khuôn khổ pháp luật.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta khẳng định: “Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm..., quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”. Dân chủ là quyền tự do của con người trong các lĩnh vực nhưng tự do phải trong khuôn khổ các chuẩn mực, nguyên tắc pháp lý, đạo đức xã hội.

Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở... Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân”.

Trong khi đó, trái ngược với quan điểm này, các nước tư bản cho rằng, dân chủ bao gồm các yếu tố: bầu cử tự do, đa đảng, tư pháp độc lập và nhân quyền; nhấn mạnh thái quá vào khía cạnh đầu phiếu phổ thông, các quyền tự do chính trị, tự do dân sự một cách tuyệt đối, phổ quát không bị giới hạn bởi đặc thù địa lý, xã hội, quốc gia, dân tộc. Và cũng chính từ quan điểm này mà các nước tư bản phương Tây đã áp đặt một cách vô căn cứ giá trị dân chủ tư sản với các nước khác, trong đó có Việt Nam. Họ triệt để lợi dụng sự khác nhau trong thực thi dân chủ với các khuôn khổ, chuẩn mực, nguyên tắc pháp lý và xã hội của các nước khác nhằm tiến hành những hoạt động chống phá.

Các quan điểm về nhân quyền, quan hệ giữa dân chủ với nhân quyền và vấn đề lợi dụng nhân quyền chống phá Việt Nam

Dân chủ và nhân quyền (quyền con người) là hai chế định gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhân quyền vừa là nền tảng, vừa là lý tưởng của dân chủ; ngược lại dân chủ là điều kiện để thực thi nhân quyền, là thể chế chính trị bảo đảm và thực thi quyền con người. Mỗi bước tiến của dân chủ phản ánh tiến bộ về quyền con người, dân chủ phát triển càng cao thì quyền con người càng được khẳng định.

Nhân quyền (quyền con người) là một phạm trù chính trị, lịch sử, pháp lý, xã hội và là vấn đề nhạy cảm, phức tạp, nên luôn có các cách hiểu khác nhau, từ khái niệm, nội dung đến cách thức thực hiện. Với việc thông qua Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, lần đầu tiên trong lịch sử, quyền con người được thừa nhận và bảo vệ một cách rộng rãi. Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thì: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”. Luật Nhân quyền quốc tế cũng chỉ ra nghĩa vụ của quốc gia và các chủ thể nghĩa vụ khác phải có trách nhiệm thực thi việc bảo đảm và ngăn ngừa sự vi phạm. Như vậy, Liên hợp quốc chủ yếu đề cập đến khía cạnh pháp lý của quyền con người, đó là những bảo đảm về pháp lý trong bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người.

Các quan điểm theo lập trường tư sản nhấn mạnh thái quá khía cạnh quyền con người là quyền tự nhiên, “bẩm sinh”, nghĩa là con người sinh ra đã có các quyền; quyền con người là những nhu cầu cơ bản của con người, xuất phát từ phẩm giá vốn có của mỗi người; con người sở dĩ có các quyền và tự do đơn giản chỉ vì họ có những phẩm chất tự nhiên của con người. Như vậy, quan điểm tư sản cho rằng quyền con người là quyền vốn có được trao cho mỗi cá nhân mà không dựa trên bất cứ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, dân tộc, xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc các điều kiện khác. Với quan điểm như vậy, các nước phương Tây đã tuyệt đối hóa tính phổ biến của nhân quyền, coi nhân quyền là cao nhất, là không có thời gian, không gian, biên giới. Cho nên, ở đâu họ cho là có vi phạm nhân quyền thì ở đó họ sẽ tiến hành các hoạt động can thiệp.

Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lê-nin thì quyền con người là quyền của tất cả mọi người, xuất phát từ nhân phẩm vốn có của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong lĩnh vực pháp luật, quyền con người được phân thành 2 nhóm chính, đó là nhóm các quyền dân sự, chính trị và nhóm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhân quyền được hình thành từ hai nguồn gốc tự nhiên và xã hội. Quyền con người mặc dù bắt nguồn từ các quyền tự nhiên, nhưng không phải tự nhiên mà có, mà đó là thành quả của các cuộc đấu tranh cách mạng, cải tạo xã hội, lịch sử phát triển loài người.

Nhân quyền có các đặc trưng: là sản phẩm của sự phát triển lịch sử; là những giá trị gắn với con người với tư cách cá nhân, đồng thời với tư cách là thành viên của cộng đồng, xã hội; được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế; là tổng thể các quyền mặc nhiên cơ bản của con người, thể hiện nhu cầu, năng lực, tự do, nhân phẩm của con người.

Hiến pháp và pháp luật Việt Nam thể hiện đầy đủ tất cả các quyền cơ bản, phổ biến của con người được nêu ra trong Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948 và các công ước quốc tế khác của Liên hợp quốc về quyền con người. Nhà nước Việt Nam luôn xác định, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam: “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”.

Việt Nam quan niệm quyền con người vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng chung của nhân loại, được ghi trong Hiến chương của Liên hợp quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và cộng đồng. Trong một thế giới ngày càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia và khu vực. Không một nước nào có quyền áp đặt mô hình chính trị, kinh tế, văn hóa của mình cho một quốc gia khác. Các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ. Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng đến quyền phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của cả cộng đồng là cách đề cập phiến diện. Do sự khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển, giá trị truyền thống văn hóa, nên mỗi quốc gia có cách tiếp cận khác nhau về quyền con người. Không nước nào có quyền sử dụng, lợi dụng vấn đề quyền con người làm công cụ can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác, gây đối đầu, gây sức ép chính trị, thậm chí sử dụng vũ lực hoặc làm điều kiện trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với nước khác.

Trong bối cảnh tồn tại giai cấp đối kháng hiện nay, nhân quyền luôn bị các thế lực thù địch lợi dụng, chính trị hóa để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, trong đó có Việt Nam. Các thế lực thù địch sử dụng chính sách “ngoại giao nhân quyền” để áp đặt tiêu chuẩn, “xuất khẩu” nhân quyền phương Tây trên phạm vi toàn cầu. Họ thường áp đặt các giá trị dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây cho các nước khác trên tất cả các lĩnh vực, như xây dựng, thực thi pháp luật, hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển “xã hội dân sự” nhằm tạo đối trọng với chính phủ.

Lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền chống phá Việt Nam luôn là một trong những hoạt động nguy hiểm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với chiêu bài “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “an ninh con người cao hơn an ninh quốc gia”, “nhân quyền không có biên giới quốc gia”, “tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự”. Dân chủ, nhân quyền đang là “cái cớ”, “vỏ bọc” cho các hành động can thiệp, gây sức ép thúc đẩy sự thay đổi chính trị ở Việt Nam của các thế lực thù địch, đồng thời là một khẩu hiệu, ngọn cờ để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động, tạo ra các khuynh hướng dân chủ cực đoan, tập hợp lực lượng chống đối, biểu tình, tiến tới các hoạt động khủng bố, bạo loạn, lật đổ. Thực tế diễn biến chính trị ở một số nước trên thế giới trong những năm gần đây cho thấy, phần lớn sự mất ổn định chính trị, xã hội đều xuất phát từ nhận thức lệch lạc về dân chủ, nhân quyền và âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền. Vì vậy, hiểu đúng về dân chủ, nhân quyền và bản chất của việc lợi dụng dân chủ, nhân quyền, giúp nâng cao cảnh giác cách mạng, đồng thời có cơ sở chính trị, pháp lý vững chắc để đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền./.

NVI38 - BÀI HỌC TỪ UKRAINA

 

 

Ukraina là một quốc gia địa chính trị, nằm trên ngã tư đi châu Âu và châu Á. Từ cuộc “cách mạng màu cam” diễn ra bằng những cuộc biểu tình phản đối kết quả bầu cử Tổng thống bị cho là gian lận năm 2005 đến nay, cứ chu kỳ 05 năm là đất nước Ukraina lại nổ ra chính biến và bất ổn. Đất nước này đã trải qua những đợt khủng hoảng kinh tế - xã hội đen tối nhất khi lạm phát tăng mà số người thất nghiệp, thu nhập thực tế của người dân giảm; mặc dù được Mỹ và phương Tây viện trợ hàng chục tỷ Mỹ kim. Một thực tế cho thấy, hơn 15 năm nay, người dân Ukraina chưa một ngày được “tận hưởng” những thành quả do cái gọi là “cách mạng đường phố” và “giá trị phương Tây” mang lại. Một tương lai bất định cho cả chính quyền và người dân xứ “giỏ bánh mì của châu Âu”. 

Báo chí loan tin 1.500 tấn vũ khí, đạn dược do Mỹ và các nước phương Tây viện trợ đã ồ ạt đưa đến Ukraina để hỗ trợ nước này để “tự vệ” trước nguy cơ bị Nga tấn công quân sự. Nếu chỉ nhìn vào truyền thông, chúng ta sẽ thấy một cuộc chạy đua vũ trang giữa Nga với Mỹ và phương Tây trong thế giới hiện đại và Ukraina chính là quân cờ.

Chiến tranh hay chạy đua vũ trang thì chỉ có người dân là khổ. Bài học của Ukraina cũng như bài học của các nước ở Trung Đông, Bắc Phi còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.

Ukraina đã trải qua nhiều cuộc lật đổ, nhưng đất nước vẫn thiếu đi một định hướng phát triển ổn định và đúng đắn. Thực tế Ukraina cho thấy sự đúng đắn của chiến lược đối ngoại và sự khéo léo trong ứng xử với các nước lớn của Việt Nam khi chúng ta vẫn giữ được sự độc lập, ổn định như ngày nay. Thực tế này cũng phủ định hoàn toàn luận điệu của đám dân chủ và những kẻ có ý đồ xấu khi lợi dụng các thời điểm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc căng thẳng để kêu gọi, kích động gây hấn quân sự hoặc theo nước này, bài nước kia.

Chính trị có ổn định thì kinh tế mới có cơ hội phát triển, người dân mới có điều kiện để làm ăn và hưởng thụ cuộc sống.

NVI38 - KỶ NIỆM NGÀY THẦY THUỐC VIỆT NAM 27/2 (27/2/1955 – 27/2/2022)

 

       Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là gốc rễ của con người, của tài năng. Với các thầy thuốc, Bác càng đặc biệt chú ý hơn về đạo đức. Trong thư gửi tới ngành Y tế ngày 27/2/1955, Bác dặn: “Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. Lương y như từ mẫu, câu nói ấy rất đúng”.

       Thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu, đội ngũ cán bộ y tế đã nỗ lực phấn đấu vượt lên mọi khó khăn gian khổ, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ có hàng trăm cán bộ y tế đã hy sinh cho ngày độc lập. Trong thời bình hiện nay, phát huy tính năng động sáng tạo, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại, ngành tiếp tục ra sức mình cứu chữa đem lại sức khỏe, hạnh phúc cho nhân dân được Đảng và chính quyền tin yêu, nhân dân quý mến. Nhiều cá nhân và tập thể được nêu gương điển hình tiên tiến, vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều bằng khen và huân chương cao quý. Rất nhiều thầy thuốc Việt Nam gần đây nhất đã nêu cao gương sáng cho chúng ta học tập cả về chuyên môn lẫn đức hạnh, như Tôn Thất Tùng, Tôn Thất Bách, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch,… và còn bao thầy thuốc, lương y, y sĩ, y tá, hộ lý… khác trong hàng ngũ những anh hùng áo trắng đã nêu gương sáng cho đời, mà chúng ta không thể kể hết.

   Hơn 2 năm qua, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, thách thức hệ thống y tế nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới. Và đất nước chúng ta đã trải qua hoàn cảnh rất khó khăn thiệt hại về kinh tế và sức khỏe của nhân dân. Đó là cuộc chiến chống lại “kẻ thù virus” vô hình nguy hiểm, luôn biến hình, biến dạng để chống lại sự nỗ lực của loài người.

Trong hành trình chống dịch, chúng ta đã sống trong sức mạnh của sự đoàn kết, sự đồng lòng của mọi tầng lớp Nhân dân với sự quyết liệt, quyết tâm của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị, của sự chia sẻ, của tình yêu thương và nhân ái… Điều đặc biệt, chúng ta đã chứng kiến những nghĩa cử cao cả, đẹp đẽ, những đức hy sinh, những trái tim nhiệt huyết, những tấm lòng nhân ái tỏa sáng… của đội ngũ bác sĩ, cán bộ và nhân viên y tế, thầy thuốc trên cả nước, họ không chỉ có trái tim nhân ái, nhân hậu mà còn trí tuệ thông minh, nghị lực kiên cường, sự chịu đựng bền bỉ, đặc biệt khi cuộc chiến diễn ra rất gay go. Chúng ta tự hào về những điều này. Đúng như câu tục ngữ “Sinh ra trong cõi hồng trần - Đời người phải lấy chữ Nhân làm đầu”. Những con người ấy đã quên hiểm nguy để chữa bệnh cho đồng bào, đồng chí nhiễm bệnh, nhất là trong giai đoạn đầu chống dịch bệnh, vaccine còn ít. Những con người ấy đã gác lại hạnh phúc riêng tư, gác lại cuộc sống yên bình để đi vào tâm dịch. Những con người ấy đã quên đi giấc ngủ, quên những bữa ăn, quên ngày quên tháng, quên Thứ Bảy, Chủ Nhật, quên đi sự nóng nực của những bộ đồ bảo hộ giữa mùa hè đổ lửa, quên đi nỗi sợ hãi, ám ảnh khi chứng kiến những phút giây sinh tử… Nhưng đổi lại, họ cảm thấy ấm áp, vui mừng, tự tin khi từng bệnh nhân khỏi bệnh… Và những con người ấy dẫu có nghị lực kiên cường đến đâu cũng đã rơi nước mắt khi những bệnh nhân nặng không qua khỏi… Tất cả tiếp thêm nghị lực cho họ để sống đúng với lời dạy của Bác Hồ kính yêu “Lương y như từ mẫu” để chữa bệnh, cứu người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhưng cũng chính trong hành trình gian nan ấy, chúng ta đã chứng kiến nhiều anh chị em đã bị nhiễm bệnh và có những người đã ra đi mãi mãi. Không thể miêu tả hết, ghi hết những cam go, khó khăn, khốc liệt trong phòng chống dịch, những gian lao, vất vả, hy sinh thầm lặng của lực lượng tuyến đầu, nhất là ngành y, đặc biệt là của những y bác sĩ trực tiếp điều trị bệnh nhân.

        Trong bối cảnh hiện nay, thực hiện chủ trương của chính phủ thích ứng an toàn, tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, mặc dù độ bao phủ vắc xin cao nhưng vẫn đang đè nặng vai cán bộ, bác sĩ ngành y tế trọng trách vất vả, hết sức nặng nề.

       Nhân dịp kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam, là dịp để chúng ta tiếp tục bày tỏ sự trân trọng, tôn vinh và cảm ơn những người thầy thuốc Việt Nam. Càng tự hào về truyền thống vẻ vang và những thành tựu to lớn mà ngành Y tế nước ta đã đạt được, chúng ta càng nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa, vượt qua mọi khó khăn mọi thách thức, ra sức khắc phục những hạn chế yếu kém, tiếp tục xây dựng ngành Y tế Việt Nam ngày càng vững mạnh, đáp ứng cao hơn, tốt hơn nữa nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của nhân dân, để xứng đáng với sự hy sinh, phấn đấu của các thế hệ thầy thuốc Việt Nam, xứng đáng niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

       

 

NVC38 - HỖ TRỢ CÔNG NHÂN TIỀN THUÊ NHÀ: CHÍNH SÁCH NHÂN VĂN

 

Chính sách này không chỉ hỗ trợ người lao động ổn định công việc mà còn giúp doanh nghiệp không bị đứt gãy nguồn cung lao động. Ngày 30-1, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình do Chính phủ ban hành.

Không để lọt đối tượng hỗ trợ

Theo đó, để bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm, Chính phủ đề ra một số giải pháp: Hỗ trợ 3 tháng tiền thuê nhà cho người lao động (NLĐ) có quan hệ lao động, đang ở thuê, ở trọ, làm việc trong KCN-KCX, khu vực kinh tế trọng điểm. Mức hỗ trợ đối với NLĐ quay trở lại thị trường lao động là 1 triệu đồng/tháng và NLĐ đang làm việc trong các doanh nghiệp (DN) là 500.000 đồng/tháng. Thời gian thực hiện là trong 6 tháng đầu năm 2022.

Theo Nghị quyết 11, Chính phủ sẽ sử dụng khoảng 6.600 tỉ đồng từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021 để hỗ trợ tiền thuê nhà cho NLĐ. Chính phủ giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các địa phương liên quan xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định về việc hỗ trợ tiền thuê nhà đối với NLĐ theo quy định tại Nghị quyết 11 ngay trong tháng 2-2022.

"Để triển khai việc hỗ trợ này, cần có hướng dẫn cụ thể từ các bộ, ngành. Đối với CN đang làm việc tại KCX-KCN, khu vực kinh tế trọng điểm…, cần phải lập danh sách đối tượng thụ hưởng và có kế hoạch tổ chức chi trả, hỗ trợ. Việc hỗ trợ cần thực hiện nhanh chóng, đơn giản các loại hồ sơ, giấy tờ để tạo thuận lợi cho NLĐ" - ông Lê Đình Quảng góp ý. "Việc hỗ trợ tiền thuê nhà cho CN là vấn đề liên quan tới chế độ chính sách, do đó cần phải được thực hiện nhanh chóng, không để sót, lọt và chi đúng đối tượng" - ông Trần Văn Lâm nhấn mạnh.

Công nhân đỡ gánh lo

Tiếp xúc với chúng tôi, nhiều CN rất vui khi biết thông tin về chính sách hỗ trợ này. Với họ, khoản hỗ trợ tuy không nhiều nhưng có ý nghĩa động viên rất lớn khi họ quay trở lại làm việc sau Tết. "TP HCM đã cho trẻ đến trường trở lại nhưng vợ chồng tôi vẫn quyết định gửi con học ở quê để đỡ chi phí. Đỡ tiền thuê nhà là đỡ gánh nặng với gia đình tôi. Hai vợ chồng sẽ cố gắng làm để gửi tiền về quê lo cho con" - chị Chi cho biết.

Ông Wang Chen Yi, Tổng Giám đốc Công ty TNHH EverWin (KCN Bình Chiểu, TP Thủ Đức), đánh giá rất cao chính sách hỗ trợ này của Chính phủ. Theo ông, đó là sự tiếp sức kịp thời cho DN sau đại dịch. "Tôi cho rằng đây là một chính sách rất nhân văn, chia sẻ gánh nặng thuê nhà cho CN sau một năm đầy khó khăn. Có an cư, CN mới an tâm làm việc, góp phần phát triển DN và đóng góp cho sự phát triển của thành phố"

NVC38 - VIỆT NAM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT DƯỚI 2%

 

CPI bình quân 10 tháng đầu năm 2021 ở mức 1,81% là điều kiện thuận lợi và có dư địa để kiểm soát lạm phát cả năm 2021 dưới mục tiêu đề ra. Tuy nhiên hiện nay áp lực lên mặt bằng giá của một số mặt hàng tiêu dùng không nằm trong danh mục nhà nước định giá, bình ổn giá là rất lớn do tác động từ cung cầu và khó khăn trong lưu thông hàng hóa. Diễn biến kinh tế thế giới vẫn còn những bất ổn, lạm phát chung có xu hướng tăng cao tại nhiều quốc gia, xu hướng tích trữ các mặt hàng nguyên, nhiên liệu, vật tư chiến lược sẽ có tác động ảnh hưởng đến Việt Nam, đòi hỏi các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục tập trung nắm bắt, theo sát diễn biến thị trường, không được chủ quan, lơ là và có các giải pháp điều hành phù hợp để tạo dư địa cho năm 2022, đồng thời đảm bảo quyền lợi của Nhà nước, người sản xuất và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, có chính sách hỗ trợ đối với những vùng kinh tế khó khăn, những đối tượng chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Chính phủ quyết tâm kiểm soát lạm phát dự kiến khoảng 2,0% để góp phần hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế và ổn định đời sống xã hội, trong trường hợp bất thường dự kiến cũng không vượt quá 2,5%, đảm bảo thực hiện mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra.

 

Đối với định hướng công tác quản lý, điều hành giá trong các tháng còn lại của năm 2021 và dự kiến cho năm 2022, đề nghị các Bộ, ngành địa phương tiếp tục đẩy mạnh quyết liệt triển khai các biện pháp sau:

 

(1) Việc điều hành kinh tế vĩ mô và công tác quản lý, điều hành giá cần tiếp tục thực hiện một cách thận trọng, linh hoạt và chủ động, bám sát diễn biến thị trường, thường xuyên có đánh giá, dự báo cụ thể để điều chỉnh cho phù hợp, tập trung vào việc kiểm soát lạm phát theo mục tiêu và hỗ trợ thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ: vừa giữ bình ổn mặt bằng giá để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa phục vụ đời sống của người dân, đảm bảo các điều kiện cho công tác phòng chống dịch bệnh vừa hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

 

Diễn biến giá năng lượng toàn cầu ở mức cao khó lường là áp lực rất lớn cho công tác điều hành giá xăng dầu trong nước những tháng cuối năm và sẽ tạo áp lực rõ ràng cho năm 2022; giá một số mặt hàng nguyên liệu cho sản xuất như sắt thép, phân bón, thức ăn chăn nuôi… tiếp tục ở mức cao và đang có xu hướng tăng do nhu cầu thế giới vẫn ở mức cao nhưng nguồn cung chưa thể đáp ứng. Một số mặt hàng tiêu dùng lớn như gạo, thịt lợn, rau củ quả… cần phải cân đối được cung cầu gắn với khâu sản xuất, lưu thông và tín hiệu thị trường về tiêu dùng để giữ bình ổn giá trong dịp lễ, Tết cuối năm 2021, đồng thời tạo đà thuận lợi những tháng đầu năm 2022.

(2) Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tài khóa chủ động phối hợp với chính sách tiền tệ linh hoạt để tạo sự hài hòa, hiệu quả, hợp lý với các chính sách kinh tế vĩ mô chung; Qua đó hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, kiểm soát lạm phát cơ bản và tạo cơ sở cho việc kiểm soát lạm phát mục tiêu, mặt khác tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận tín dụng để phát triển kinh tế. Các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Bộ Ngoại giao theo dõi sát diễn biến kinh tế thế giới, tình hình lạm phát chung và của các quốc gia, phản ứng chính sách về tài khóa, tiền tệ của các nền kinh tế lớn, nhất là các nền kinh tế có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn với nước ta để đề ra các biện pháp có tính tổng thể, dài hạn trong việc quản lý, điều hành giá, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo thực hiện mục tiêu kép, vừa phòng chống dịch, vừa tiếp tục phát triển kinh tế, an sinh xã hội.

 

Đối với mặt hàng xăng dầu và mặt hàng điện: Bộ Công Thương tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính điều hành giá xăng dầu linh hoạt, giá xăng dầu trong nước phản ánh, bám sát diễn biến giá thành phẩm xăng dầu thế giới; tiến hành kiểm tra giá mặt hàng sản xuất điện để thực hiện công khai minh bạch về giá điện;

 

NVB38 - Làm thất bại âm mưu lợi dụng công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng để chống phá Đảng, Nhà nước

 

Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian qua được Đảng, Nhà nước ta quan tâm thực hiện với quyết tâm chính trị cao. Với tinh thần “không có vùng cấm”, phát huy tốt vai trò của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Những kết quả đó được nhân dân cả nước đồng tình ủng hộ và đánh giá cao; qua đó góp phần tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, các phần tử cơ hội, phản động vẫn ra sức xuyên tạc, chống phá đối với Đảng, Nhà nước ta thông qua công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Với quyết tâm chính trị cao, chúng ta đã phát hiện và đưa ra xử lý nhiều vụ việc liên quan đến tham nhũng thì chúng lại lợi dụng vào đó và cho rằng “tình trạng tham nhũng năm sau lại cao hơn năm trước”; chúng vu cáo rằng thể chế “sinh ra tham nhũng”…Từ luận điệu trên có thể thấy rằng, những phần tử cơ hội, phản động đang lợi dụng những kết quả trong công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng để xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Từ đó chúng muốn cổ xúy, kích động thực hiện âm mưu đa đảng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Do đó, phải luôn tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng để xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước./.

NVB38 - Cảnh giác với âm mưu lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch.

 

Vấn đề tự do tôn giáo luôn là một “mảnh đất màu mỡ” mà các thế lực thù địch lợi dụng để tiến hành các hoạt động chống phá đối với Đảng và Nhà nước ta.  Tuy đây không phải là thủ đoạn mới lạ nhưng có sức hút lớn, sự quan tâm đông đảo của dư luận, là “cái cớ” mà các thế lực thù địch tìm mọi cách lợi dụng để tiến hành chống phá đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

         Trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Vấn đề tự do tôn giáo được quan tâm thực hiện chặt chẽ, bảo đảm về quyền, lợi ích của các tôn giáo, chức sắc, tín đồ, hoạt động tôn giáo…theo đúng Hiến pháp và pháp luật quy định. Đa số các tổ chức, chức sắc, tín đồ tôn giáo ở nước ta hoạt động luôn gắn liền với lợi ích quốc gia, dân tộc, vừa làm tròn bổn phận của mình đối với tôn giáo, vừa góp phần cùng toàn dân thực hiện tốt công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Những thành tựu đó được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, vị thế nước ta ngày càng vững chắc trên trường quốc tế. Thực tế đã chứng minh rằng, không có một tổ chức, chức sắc, tín đồ tôn giáo nào chấp hành đúng pháp luật mà bị ngăn cấm ở nước ta.

          Tuy nhiên, với âm mưu chống phá của mình, các phần tử cơ hội, phản động vẫn thường xuyên đưa ra các bài viết nhằm xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Mới đây, trên trang Việt Nam Thời Báo, đối tượng Phạm Lê Đoan đã phát tán bài “Tôn giáo và vấn đề sắc tộc ở Tây Nguyên” với nội dung nhằm xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Đối tượng vu cáo rằng Việt Nam vi phạm quyền tự do tôn giáo, không cho thành lập các tôn giáo mới, đạo mới; đồng thời kêu gọi các tổ chức quốc tế gây sức ép đối với Đảng, Nhà nước ta.

          Có thể thấy rằng, Phạm Lê Đoan đã đội lốt “tôn giáo”, đánh giá sai lệc, phiến diện về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Mục đích là nhằm lợi dụng vào vấn đề này để tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động quần chúng lật đổ chính quyền nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là thủ đoạn nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam.

         Do đó, chúng ta phải hết sức cảnh giác trước sự xuyên tạc của kẻ thù, không để bị mắc mưu, lôi kéo vào những hành động vi phạm pháp luật Nhà nước, gây ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, kiên quyết xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong hình mới.

 

 

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...