Dân chủ, nhân quyền là phạm trù chính trị,
pháp lý, lịch sử, văn hóa, xã hội gắn liền với mỗi hình thái kinh tế - xã hội,
với mỗi chế độ chính trị và mỗi quốc gia khác nhau, nên có nhiều quan điểm, tư
tưởng khác nhau về các phạm trù này. Do đó, cần phải hiểu đúng về dân chủ, nhân
quyền để kiên quyết đấu tranh với việc áp đặt quan điểm, tư tưởng về dân chủ,
nhân quyền của quốc gia này đối với quốc gia khác, cũng như việc lợi dụng dân
chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam.
Các tư tưởng về dân chủ và vấn đề áp đặt vô
căn cứ giá trị dân chủ tư sản với các nước khác
Dân chủ là một khái niệm dùng để chỉ quyền làm chủ của
nhân dân, phản ánh mối quan hệ giữa nhân dân và quyền lực nhà nước, trong đó
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ là một phạm trù chính trị, lịch
sử, văn hóa, xã hội và luôn gắn với sự tồn tại của các kiểu nhà nước trong
những điều cụ thể nhất định. Bởi vậy, khái niệm “dân chủ” có mối quan hệ chặt
chẽ với khái niệm “chế độ dân chủ” và “nền dân chủ”. “Chế độ dân chủ” dùng để
chỉ thiết chế xã hội nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân; còn khái niệm “nền
dân chủ” dùng để chỉ hệ thống các thiết chế được xác lập và thực thi trong hiện
thực xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội đó.
Biểu hiện của một chế độ dân chủ thường bao gồm bốn yếu
tố chính: Có một hệ thống chính trị mà việc lựa chọn và thay thế các chính phủ
thông qua bầu cử tự do và công bằng; bảo đảm sự tham gia tích cực của công dân
trong chính trị và đời sống dân sự; bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo
đảm pháp quyền, trong đó tất cả mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
không ai đứng trên luật pháp. Có 2 phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, dân chủ
là một phạm trù có quá trình phát sinh, phát triển rất phức tạp. Trong mỗi hình
thái kinh tế - xã hội, mỗi thời đại, mỗi quốc gia, dân tộc, dân chủ luôn có
những nét đặc trưng trên cơ sở kế thừa biện chứng những điểm chung được nêu ở
trên.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, xét về bản chất chính là
dân chủ của giai cấp chủ nô. Trong chế độ phong kiến, các tư tưởng và mô hình
dân chủ bị hạn chế, cấm đoán bởi chế độ tập quyền chuyên chế khi quyền lực
tuyệt đối nằm trong tay một đấng quân vương. Nền dân chủ tư sản được xác lập do
cuộc cách mạng tư sản dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản với các
giai cấp khác lật đổ chế độ phong kiến. Vì vậy, những thành tựu giành được của
nền dân chủ tư sản không chỉ do riêng giai cấp tư sản tạo ra, mà là kết quả đấu
tranh của nhân dân lao động, kết quả của quá trình nhận thức và tất yếu của
tiến bộ xã hội. Những tuyên bố về tự do, bình đẳng, bác ái, tư tưởng về nhà
nước pháp quyền và xã hội công dân là những nội dung đầu tiên của dân chủ tư
sản. Tuy nhiên, với bản chất của xã hội tư sản, nền dân chủ tư sản không tránh
khỏi những hạn chế khách quan.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của nhân dân lao động
(dân chủ nhân dân) được thể hiện trong mọi lĩnh vực chính trị - kinh tế, văn
hóa - xã hội. Nó được hình thành và phát triển bằng toàn bộ những giá trị văn
hóa chân thực của nhân loại. Xã hội càng phát triển, điều kiện vật chất, trí
tuệ, tinh thần của con người ngày càng phong phú thì xu hướng dân chủ càng mở
rộng và được khẳng định mạnh mẽ.
Ở Việt Nam, dân chủ cũng có quá trình hình thành và phát
triển tuân theo quy luật chung. Hiện nay, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của đổi mới, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Dân chủ là phương thức, nguyên tắc cơ
bản của hoạt động quản lý nhà nước và xã hội, trong đó mọi thành viên được tôn
trọng, bình đẳng trong việc tham gia quyết định các vấn đề của đất nước, xã
hội, cộng đồng. Công dân được tạo mọi điều kiện để phát huy các quyền tự do,
dân chủ của mình. Cơ sở của dân chủ xã hội chủ nghĩa là các quyền tự do của cá
nhân, tổ chức trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, nhưng không có
tư tưởng tự do vô giới hạn mà phải trong khuôn khổ pháp luật.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta khẳng định: “Dân chủ phải đi
đôi với kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo
đảm..., quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”. Dân chủ là quyền tự do của
con người trong các lĩnh vực nhưng tự do phải trong khuôn khổ các chuẩn mực,
nguyên tắc pháp lý, đạo đức xã hội.
Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện
thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc
biệt là dân chủ ở cơ sở... Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân
lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi
phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân”.
Trong khi đó, trái ngược với quan điểm này, các nước tư
bản cho rằng, dân chủ bao gồm các yếu tố: bầu cử tự do, đa đảng, tư pháp độc
lập và nhân quyền; nhấn mạnh thái quá vào khía cạnh đầu phiếu phổ thông, các
quyền tự do chính trị, tự do dân sự một cách tuyệt đối, phổ quát không bị giới
hạn bởi đặc thù địa lý, xã hội, quốc gia, dân tộc. Và cũng chính từ quan điểm
này mà các nước tư bản phương Tây đã áp đặt một cách vô căn cứ giá trị dân chủ
tư sản với các nước khác, trong đó có Việt Nam. Họ triệt để lợi dụng sự khác
nhau trong thực thi dân chủ với các khuôn khổ, chuẩn mực, nguyên tắc pháp lý và
xã hội của các nước khác nhằm tiến hành những hoạt động chống phá.
Các quan điểm về nhân quyền, quan hệ giữa dân
chủ với nhân quyền và vấn đề lợi dụng nhân quyền chống phá Việt Nam
Dân chủ và nhân quyền (quyền con người) là hai chế định
gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhân quyền vừa là nền tảng, vừa là lý tưởng của dân
chủ; ngược lại dân chủ là điều kiện để thực thi nhân quyền, là thể chế chính
trị bảo đảm và thực thi quyền con người. Mỗi bước tiến của dân chủ phản ánh
tiến bộ về quyền con người, dân chủ phát triển càng cao thì quyền con người
càng được khẳng định.
Nhân quyền (quyền con người) là một phạm trù chính trị,
lịch sử, pháp lý, xã hội và là vấn đề nhạy cảm, phức tạp, nên luôn có các cách
hiểu khác nhau, từ khái niệm, nội dung đến cách thức thực hiện. Với việc thông
qua Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, lần đầu
tiên trong lịch sử, quyền con người được thừa nhận và bảo vệ một cách rộng rãi.
Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thì: “Quyền con người là
những bảo đảm pháp lý phổ quát có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại
những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và
tự do cơ bản của con người”. Luật Nhân quyền quốc tế cũng chỉ ra nghĩa vụ của
quốc gia và các chủ thể nghĩa vụ khác phải có trách nhiệm thực thi việc bảo đảm
và ngăn ngừa sự vi phạm. Như vậy, Liên hợp quốc chủ yếu đề cập đến khía cạnh
pháp lý của quyền con người, đó là những bảo đảm về pháp lý trong bảo vệ các
quyền tự do cơ bản của con người.
Các quan điểm theo lập trường tư sản nhấn mạnh thái quá
khía cạnh quyền con người là quyền tự nhiên, “bẩm sinh”, nghĩa là con người
sinh ra đã có các quyền; quyền con người là những nhu cầu cơ bản của con người,
xuất phát từ phẩm giá vốn có của mỗi người; con người sở dĩ có các quyền và tự
do đơn giản chỉ vì họ có những phẩm chất tự nhiên của con người. Như vậy, quan
điểm tư sản cho rằng quyền con người là quyền vốn có được trao cho mỗi cá nhân
mà không dựa trên bất cứ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn
ngữ, tôn giáo, chính kiến, dân tộc, xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc các điều
kiện khác. Với quan điểm như vậy, các nước phương Tây đã tuyệt đối hóa tính phổ
biến của nhân quyền, coi nhân quyền là cao nhất, là không có thời gian, không
gian, biên giới. Cho nên, ở đâu họ cho là có vi phạm nhân quyền thì ở đó họ sẽ
tiến hành các hoạt động can thiệp.
Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lê-nin thì quyền con
người là quyền của tất cả mọi người, xuất phát từ nhân phẩm vốn có của con
người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong lĩnh vực pháp luật, quyền con
người được phân thành 2 nhóm chính, đó là nhóm các quyền dân sự, chính trị và
nhóm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhân quyền được hình thành từ hai
nguồn gốc tự nhiên và xã hội. Quyền con người mặc dù bắt nguồn từ các quyền tự
nhiên, nhưng không phải tự nhiên mà có, mà đó là thành quả của các cuộc đấu
tranh cách mạng, cải tạo xã hội, lịch sử phát triển loài người.
Nhân quyền có các đặc trưng: là sản phẩm của sự phát
triển lịch sử; là những giá trị gắn với con người với tư cách cá nhân, đồng
thời với tư cách là thành viên của cộng đồng, xã hội; được ghi nhận và bảo đảm
thực hiện trong hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế; là tổng thể các quyền
mặc nhiên cơ bản của con người, thể hiện nhu cầu, năng lực, tự do, nhân phẩm
của con người.
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam thể hiện đầy đủ tất cả
các quyền cơ bản, phổ biến của con người được nêu ra trong Tuyên ngôn Nhân
quyền thế giới năm 1948 và các công ước quốc tế khác của Liên hợp quốc về quyền
con người. Nhà nước Việt Nam luôn xác định, con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, là trung tâm của các chính sách kinh
tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự
phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt
Nam: “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công
dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm
công dân đối với xã hội”.
Việt Nam quan niệm quyền con người vừa mang tính phổ
biến, thể hiện khát vọng chung của nhân loại, được ghi trong Hiến chương của
Liên hợp quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và cộng đồng. Trong một
thế giới ngày càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần
kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những
điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hóa,
tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia và khu vực. Không một
nước nào có quyền áp đặt mô hình chính trị, kinh tế, văn hóa của mình cho một
quốc gia khác. Các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và
phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng;
quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ. Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa
các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích
đáng đến quyền phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của cả cộng
đồng là cách đề cập phiến diện. Do sự khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, chế độ
chính trị, trình độ phát triển, giá trị truyền thống văn hóa, nên mỗi quốc gia
có cách tiếp cận khác nhau về quyền con người. Không nước nào có quyền sử dụng,
lợi dụng vấn đề quyền con người làm công cụ can thiệp vào công việc nội bộ của
các quốc gia khác, gây đối đầu, gây sức ép chính trị, thậm chí sử dụng vũ lực
hoặc làm điều kiện trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với nước khác.
Trong bối cảnh tồn tại giai cấp đối kháng hiện nay, nhân
quyền luôn bị các thế lực thù địch lợi dụng, chính trị hóa để can thiệp vào
công việc nội bộ của các nước khác, trong đó có Việt Nam. Các thế lực thù địch
sử dụng chính sách “ngoại giao nhân quyền” để áp đặt tiêu chuẩn, “xuất khẩu”
nhân quyền phương Tây trên phạm vi toàn cầu. Họ thường áp đặt các giá trị dân
chủ, nhân quyền kiểu phương Tây cho các nước khác trên tất cả các lĩnh vực, như
xây dựng, thực thi pháp luật, hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển “xã hội
dân sự” nhằm tạo đối trọng với chính phủ.
Lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền chống phá
Việt Nam luôn là một trong những hoạt động nguy hiểm trong chiến lược “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch với chiêu bài “nhân quyền cao hơn chủ
quyền”, “an ninh con người cao hơn an ninh quốc gia”, “nhân quyền không có biên
giới quốc gia”, “tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự”. Dân chủ, nhân quyền đang
là “cái cớ”, “vỏ bọc” cho các hành động can thiệp, gây sức ép thúc đẩy sự thay
đổi chính trị ở Việt Nam của các thế lực thù địch, đồng thời là một khẩu hiệu,
ngọn cờ để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động, tạo ra các khuynh hướng dân chủ
cực đoan, tập hợp lực lượng chống đối, biểu tình, tiến tới các hoạt động khủng
bố, bạo loạn, lật đổ. Thực tế diễn biến chính trị ở một số nước trên thế giới
trong những năm gần đây cho thấy, phần lớn sự mất ổn định chính trị, xã hội đều
xuất phát từ nhận thức lệch lạc về dân chủ, nhân quyền và âm mưu, hoạt động lợi
dụng dân chủ, nhân quyền. Vì vậy, hiểu đúng về dân chủ, nhân quyền và bản chất
của việc lợi dụng dân chủ, nhân quyền, giúp nâng cao cảnh giác cách mạng, đồng
thời có cơ sở chính trị, pháp lý vững chắc để đấu tranh có hiệu quả với âm mưu,
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực dân chủ, nhân
quyền./.