Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

NVD40 - Phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề dân chủ và phát triển xã hội để đòi đa nguyên, đa đảng của các thế lực thù địch

 

Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng cả trong thời kỳ giành, giữ chính quyền và công cuộc xây dựng, phát triển Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhận thức rõ vấn đề đó, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam, hướng Việt Nam đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, các thế lực thù địch chú trọng tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bên cạnh những hoạt động như tác động, chuyển hóa; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ Đảng thì một mũi tấn công trọng yếu, thường xuyên được các thế lực thù địch tiến hành thời gian vừa qua là đẩy mạnh hoạt động phá hoại tư tưởng với nhiều luận điệu “tấn công trực diện” vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Mục đích của các thế lực thù địch là qua hoạt động phá hoại tư tưởng để tác động nhằm thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tính tất yếu của sự ra đời và lãnh đạo cách mạng của Đảng, từ đó lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào con đường chống đối lại Đảng, hình thành nên các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập tại Việt Nam, tiến tới thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng.

Với mục đích đó, các thế lực thù địch đã tung ra hàng trăm, hàng nghìn các luận điệu khác nhau tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam như Muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng” hay “Đa nguyên, đa đảng”  là biện pháp duy nhất để có dân chủ thực sự và phát triển xã hội?

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ và chế độ chính trị, tiếp cận ở khía cạnh lịch sử và đương đại để phân tích, bình luận về quan điểm nêu trên, luận giải những vấn đề cần phải làm trong xây dựng Đảng, bảo đảm rằng Đảng Cộng sản là chính đảng cầm quyền thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và đưa đất nước phát triển là giá trị cốt lõi, tiền đề cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng và hoàn thiện ở Việt Nam.

Về quan điểm: Muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng”?

Cần thấy rằng, “đa nguyên, đa đảng” là sản phẩm của nhà nước tư sản nhằm duy trì bản chất của giai cấp tư sản (số ít trong xã hội thuộc giai cấp bóc lột). Mục đích chính trị của đa nguyên, đa đảng là nhằm thủ tiêu chế độ công hữu, duy trì chế độ tư hữu. Do đó, nhà nước tư sản mặc dù là kiểu nhà nước tiến bộ trong lịch sử, song do giai cấp tư sản nắm địa vị thống trị nên vẫn là kiểu nhà nước của thiểu số bóc lột đa số giống như hai kiểu nhà nước trước đó (nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến).

Nhà nước tư sản ra đời từ sau thắng lợi của cách mạng tư sản, là nấc thang tiến bộ trong lịch sử nhân loại, phá bỏ chế độ phong kiến, hình thành nền dân chủ tư sản, thông qua lý luận chính thể trên cơ sở Hiến pháp (Hiến chính) tạo nên hình thức chính thể mới là quân chủ lập hiến (quân chủ lập hiến là sản phẩm của cách mạng không triệt để, có sự thoả hiệp giữa giai cấp tư sản và giai cấp quý tộc, phong kiến). Vua không còn quyền lực vô biên như ở nhà nước phong kiến mà bị ràng buộc bởi quy định mang tính chuẩn mực của Hiến pháp. Đồng thời, cùng với thắng lợi của cách mạng tư sản và để thích ứng với sự phát triển của kinh tế, đa số nhà nước tư sản đều xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ (cộng hòa tổng thống, cộng hòa nghị viện và cộng hòa lưỡng tính), thực hiện nguyên tắc tam quyền phân lập và đa đảng cạnh tranh. Trong nhà nước tư sản, bầu cử được xem là một biện pháp dân chủ để thông qua đó người dân cử người đại diện cho mình tham gia các công việc của nhà nước. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra: vì sao ở những nhà nước tư sản với nền chính trị “đa nguyên, đa đảng”, bầu cử dân chủ mà đại diện cho nhân dân lao động chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội lại rất khó trúng cử hoặc không thể chiếm đa số trong nghị viện. Các chính sách phát triển cho đa số người lao động, người nghèo lại khó được nghị viện thông qua như vậy (ví dụ trường hợp Obamacare không phải là cá biệt). Thực trạng đó cho thấy, đại diện các đảng phái có chân trong nghị viện sẽ thực hiện quyền lập pháp, quyết định chính sách có lợi cho đảng mình mà không phải cho đông đảo người lao động; pháp luật là công cụ cho giai cấp tư sản không chỉ quản lý đất nước mà còn thực hiện biện pháp bóc lột giai cấp.

Như vậy, đa nguyên, đa đảng không phải là phương thức để mang đến dân chủ thực sự với ý nghĩa dân chủ là giá trị cốt lõi để người dân được trực tiếp, gián tiếp tham gia các hoạt động nắm giữ quyền lực công, mang lại việc thụ hưởng quyền đầy đủ. Đây chính là lý do để thấy rằng trong các nhà nước tư sản đang tồn tại chế độ “đa nguyên, đa đảng” thì vẫn phải đối mặt với chính trị bất ổn, kinh tế suy thoái, quyền lực chính trị thuộc về nhân dân không được bảo đảm. Có thể thấy được thực trạng này ở những nhà nước tư sản trên thế giới như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và thậm chí là Mỹ, Anh, Pháp. Như vậy, trong nhà nước tư sản, người dân không được làm chủ, mà các đảng phái tranh giành quyền lực chính trị, thâu tóm các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước với mục đích bóc lột càng nhiều càng tốt nhân dân lao động thông qua các chính sách thuế, chính sách phát triển khác, thì đó là “đảng chủ” chứ không phải là dân chủ.

Trong khi đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời sau thắng lợi của cách mạng vô sản, là kiểu nhà nước chưa từng có trong lịch sử và là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử, ra đời với sứ mệnh bảo vệ bản chất giai cấp của nhà nước vô sản: do nhân dân lao động nắm quyền, bảo vệ quyền lợi cho đông đảo người dân trong xã hội, không có áp bức, bóc lột giai cấp khác trong xã hội. Vì thế, V.I.Lênin gọi đây là “nhà nước nửa nhà nước”. Xét về lý luận, kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước có nền dân chủ ưu việt hơn dân chủ tư sản. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ đưa người dân từ giai cấp bị trị, bị bóc lột lên vị trí nắm quyền quản lý và điều hành đất nước.

Như vậy, có thể trả lời ngay rằng, căn cứ vào lý luận nhà nước và hình thức chính thể, quan điểm “muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng” không có căn cứ khoa học.

Với quan điểm: “Đa nguyên, đa đảng” có phải là biện pháp duy nhất để có dân chủ thực sự và phát triển xã hội?

Dân chủ là giá trị của văn minh nhân loại. Dân chủ gắn liền với mỗi dân tộc, mỗi nhà nước, mỗi thể chế chính trị, thể hiện giá trị của tự do, công bằng và bình đẳng. Dân chủ gắn với cá nhân thể hiện giá trị của quyền cơ bản của con người: quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Dân chủ gắn với các thiết chế chính trị thể hiện chế độ, hình thức nhà nước, phương pháp lãnh đạo và quản lý xã hội - là tuyên bố của mỗi nhà nước, mỗi đảng cầm quyền trước nhân dân; dân chủ là động lực, mục tiêu của sự phát triển trong công cuộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con người. Suy cho cùng, dân chủ vừa là nguyên tắc, vừa là phương pháp để Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý đất nước hướng đến bảo đảm các quyền và lợi ích cho số đông người dân.

Trong khi đó, “đa nguyên, đa đảng” là biểu hiện của chế độ chính trị có trong lịch sử phát triển của cả nhà nước tư sản và không xa rời đối với kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chế độ chính đảng cầm quyền của chủ nghĩa tư bản thông thường là đa đảng, chế độ một đảng chỉ là ngoại lệ đặc thù. Chế độ đa đảng tư bản chủ nghĩa chủ yếu có ba loại hình thái: chế độ một đảng thống trị, cầm quyền lâu dài (Đảng Dân chủ tự do của Nhật Bản); chế độ hai đảng thống trị, thay nhau cầm quyền (Mỹ: Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa, Anh: Đảng Bảo thủ và Công Đảng...); chế độ đa đảng thống trị, đa đảng liên minh cầm quyền (Italia...).

Ở các nước xã hội chủ nghĩa, về lý luận và thực tế không phủ nhận chế độ đa đảng. C.Mác và Ph.Ăngghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã đề cập đến việc Đảng Cộng sản cần phải liên hợp với các chính đảng công nhân khác, các chính đảng của giai cấp tiểu tư sản, thậm chí phải liên hợp với cả một bộ phận tiến bộ của giai cấp tư sản. Sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga cũng không thực hiện chuyên chính một Đảng. Sau thắng lợi của cách mạng, nước Nga đều do liên minh hai đảng hoặc ba đảng cầm quyền mà hoàn toàn không phải một đảng cầm quyền. Hiện nay, mặc dù đa số các quốc gia xã hội chủ nghĩa thực hiện chế độ một đảng cầm quyền, nhưng cũng có những nước như Trung Quốc đã và đang thực hiện chế độ đa đảng (song ở Trung Quốc thì Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền). Ở Việt Nam, tháng 8-1945, Đảng ta lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong những ngày đầu giữ chính quyền và nền độc lập dân tộc, Đảng ta đã tuyên bố tự giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã mở rộng thành phần cho mọi tổ chức, chính đảng cùng tham gia lãnh đạo đất nước. Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có các đảng như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, Quốc dân đảng tham gia. Sau này còn Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản, và đến năm 1988, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội tuyên bố tự giải tán. Tuy nhiên, hai đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó cho thấy, chế độ đa đảng không phải chỉ tồn tại trong nhà nước tư sản mà nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có thể sử dụng hình thái chính trị này. Song điều quan trọng là duy trì chế độ đa đảng không phải là con đường duy nhất để có được dân chủ thực sự cho người dân.

Chế độ một đảng cầm quyền hay đa đảng trong hệ thống chính trị có phát huy được dân chủ hay không phụ thuộc nhiều vào phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền đó. Thực tế phát triển của mỗi quốc gia, mỗi nhà nước và phương thức lãnh đạo của đảng sẽ trả lời cho việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với bộ máy nhà nước. Bởi lẽ, phương thức lãnh đạo của đảng (phương thức cầm quyền) sẽ quyết định đến tính duy nhất của đảng trong việc lãnh đạo đất nước và toàn xã hội. Để giải quyết vấn đề này cần thấy rằng, phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền trong nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa không giống nhau vì mục tiêu, bản chất giai cấp sở dĩ đã không giống nhau.

Ở nhà nước tư sản, trong chính thể quân chủ lập hiến hoặc cộng hòa đại nghị, đảng nào có số ghế chiếm đa số trong nghị viện thì chủ tịch đảng đó sẽ đồng thời là thủ tướng nên hiện tượng thủ tướng độc lập ban hành và thực hiện chính sách là phổ biến. Việc trình chính sách lên nghị viện và được thông qua là dễ dàng vì đa số ghế của nghị viện thuộc đảng đó. Nếu không, do nghị viện nắm quyền giám sát, có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm dẫn đến thủ tướng và các thành viên của chính phủ phải từ chức và ngược lại, nghị viện có thể bị giải tán để lại bầu lại nghị viện. Đây là phương thức lãnh đạo phổ biến dẫn đến sự mất ổn định xã hội lớn cả trong hai trường hợp nêu trên xảy ra.

Trong khi đó, ở nhà nước xã hội chủ nghĩa, phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản được khẳng định ở đường lối, chủ trương, công tác tổ chức, cán bộ và biện pháp giáo dục, thuyết phục. Tuy nhiên, sự đổ vỡ của khối các nước xã hội chủ nghĩa lại chỉ ra rằng, sự không phân biệt giữa đảng cầm quyền và chính quyền, sự duy trì đảng trị thay cho pháp trị dẫn đến hiện tượng Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất hoạt động mang tính hình thức, còn Bộ Chính trị Trung ương Đảng mới là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Theo đó, sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu có nguyên nhân do phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền còn xa rời thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa nên việc cả đảng viên và nhân dân từ bỏ thể chế đó đã xảy ra.

Điều này cho thấy dân chủ thực sự được quyết định bởi phương thức lãnh đạo của đảng, cách thức lãnh đạo nhân dân; nhà nước thực hiện và duy trì bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa chứ không phụ thuộc vào thể chế chính trị đó là đa nguyên, đa đảng hay duy nhất một đảng. Bởi nhiều đảng song không có chính đảng có lý tưởng và mục đích chính trị đúng đắn như Đảng Cộng sản thì nhiều đảng là vô nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không được bảo đảm. Ngược lại, một đảng có mục tiêu, có lý tưởng chính trị đúng đắn nhưng không có phương pháp lãnh đạo đúng đắn, không tự thường xuyên chỉnh đốn đảng thì lý tưởng của đảng đó chỉ nằm trên giấy.

Chân lý đó được kiểm nghiệm qua thực tiễn Việt Nam, trong suốt quá trình cách mạng. Bằng năng lực và sự nỗ lực quên mình vì lợi ích chung, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn thực sự là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới. Mặc dù có hạn chế, khuyết điểm, song Đảng Cộng sản vẫn được nhân dân giao phó trách nhiệm ngày càng cao. Thông qua Hiến pháp, nhân dân không chỉ thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội mà còn là sự giao trách nhiệm cho Đảng. Điều đó cho thấy nguyên lý chủ quyền nhân dân là cơ sở để nhận diện vai trò của Đảng Cộng sản, nó đòi hỏi sự thống nhất về lợi ích và ý chí giữa đảng cầm quyền và nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội có tính hợp pháp, tính chính đáng nên muốn bảo đảm vị thế chính trị đó, Đảng luôn chú trọng tới đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đây là biện pháp cần thiết mang tính cấp bách.

3 nhận xét:

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...