Cách đây 50 năm, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, quân và dân ta đã
đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng đường không của đế quốc Mỹ, làm nên Chiến
thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.
Chiến thắng lịch sử trên bầu trời
Hà Nội được tạo nên bởi nhiều yếu tố, trong đó, sức mạnh của thế trận chiến
tranh nhân dân (CTND) là nhân tố hết sức quan trọng.
Hội nghị Paris, sau 4 năm đàm
phán không tiến triển, tháng 10-1972, trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ một
tháng, Mỹ nhanh chóng nhất trí với dự thảo văn bản “Hiệp định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” do phía ta đưa ra và thỏa thuận sẽ ký chính
thức vào cuối tháng 12-1972. Tuy nhiên, đó chỉ là mưu đồ chính trị nhằm tái cử
Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ thứ hai của Nixon.
Sau khi trúng cử tổng thống,
Nixon cố tình kéo dài đàm phán để xúc tiến việc chuẩn bị cho hành động phiêu
lưu quân sự mới, nhằm buộc ta chấp nhận các điều kiện của chúng. Ngày
14-12-1972, Nixon chính thức phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích lớn bằng không
quân chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương ở miền Bắc Việt Nam.
Với sự huy động lớn về lực lượng, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tin rằng sẽ giành
được thắng lợi tuyệt đối.
Đúng như nhận định của ta, sau
thời gian trinh sát và đánh phá thăm dò, tối 18-12-1972, Mỹ tập trung lực lượng
lớn không quân với nhiều máy bay B-52 cùng các loại máy bay hiện đại khác, bất
ngờ mở cuộc tập kích chiến lược mang tên “Linebacker II”, đánh vào Hà Nội, Hải
Phòng và một số tỉnh miền Bắc. “Quyết không để Tổ quốc bị bất ngờ”, các đơn vị
radar đã phát hiện địch từ xa và kịp thời báo cáo.
Mệnh lệnh chiến đấu, tín hiệu
thông báo, báo động nhanh chóng được chuyển tới quân và dân ta để tất cả bước
vào trạng thái chiến đấu, không quân được lệnh xuất kích chặn đánh máy bay địch
từ xa. Ngay trận đầu, bộ đội tên lửa cùng quân và dân Hà Nội đã bắn rơi máy bay
B-52 và bắt sống phi công Mỹ, từ đó củng cố vững chắc lòng tin đánh thắng kẻ
thù.
Trước khi máy bay B-52 ném bom
rải thảm ở Hà Nội, lệnh sơ tán khẩn cấp và triệt để được thông báo tới toàn
dân. Những dòng người hối hả rời nội thành, tỏa về vùng nông thôn trong vòng
tay đùm bọc, che chở của bà con các làng quê giàu lòng nhân nghĩa. Những người ở
lại yên tâm bám trụ Hà Nội và sẵn sàng chiến đấu với quân thù.
Không chỉ tổ chức cho nhân dân sơ
tán, để triển khai thế trận CTND hiệu quả, chính quyền Hà Nội tổ chức hệ thống
còi báo động rộng khắp. Mỗi khi nhận được thông tin máy bay địch vượt qua biên
giới, xâm phạm vào vùng trời nước ta, còi báo động trong thành phố lập tức vang
lên. Các loa phóng thanh trên mọi tuyến phố, nẻo đường truyền đi tiếng nói điềm
tĩnh, dõng dạc của phát thanh viên: "Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy
bay địch cách Hà Nội một trăm cây số. Đồng bào bình tĩnh và nhanh chóng về nơi
ẩn nấp. Lực lượng vũ trang về vị trí chiến đấu". Lúc này, cả thành phố
nhanh chóng bước vào trạng thái chiến đấu.
Cùng với quá trình triển khai sơ
tán và tổ chức báo động, Hà Nội đã phát động phong trào toàn dân bắn máy bay
địch, lấy lực lượng phòng không 3 thứ quân làm nòng cốt; xây dựng và phát triển
phòng không của dân quân, tự vệ gồm các tổ bắn máy bay bay thấp, bố trí và cơ
động trên các trận địa đã chọn lựa; lực lượng không trực chiến thì vừa tiến
hành sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, khi có báo động thì triển khai tại các
công sự đã chuẩn bị trước để bắn máy bay địch.
Trước sự đánh phá ác liệt mang
tính hủy diệt của không quân Mỹ, Hà Nội xác định phải kiên quyết bảo đảm giao
thông vận tải (GTVT) thông suốt, liên tục, an toàn để phục vụ sản xuất và chiến
đấu. Trên mặt trận này, TP Hà Nội đã phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng
GTVT chuyên nghiệp và lực lượng công binh làm nhiệm vụ xung kích ở những trọng
điểm bị địch đánh phá. Bên cạnh đó, chính quyền thành phố triển khai rộng rãi
lực lượng bảo đảm GTVT không chuyên, gồm các tổ ứng trực và khắc phục hậu quả ở
các tuyến giao thông, các bến vượt, các cầu nhỏ mà thành viên là dân quân, tự
vệ.
Việc tổ chức
và kết hợp chặt chẽ các hoạt động của lực lượng không chuyên và lực lượng
chuyên trên mặt trận GTVT là sự vận dụng sáng tạo nghệ thuật chỉ đạo bảo đảm
GTVT trong CTND chống lại kẻ thù. Do làm tốt công tác này, dù các mục tiêu GTVT
trên địa bàn thành phố bị đánh phá liên tục, nhưng lực lượng bảo đảm giao thông
đã kiên cường bám trụ, kịp thời khắc phục hậu quả.
Dưới những đợt máy bay B-52 ném
bom rải thảm, vắt qua sông Đuống, sông Hồng vẫn có những chiếc cầu phao và cầu
treo cùng những chuyến phà ngày đêm qua lại, giữ vững mạch máu giao thông, bảo
đảm chi viện cho các trận địa đánh địch. Đó là kết quả nổi bật của thế trận mà
quân và dân Hà Nội tổ chức thực hiện nhằm chống lại chiến tranh hiện đại của
quân đội Mỹ.
Mô tả về sự tàn khốc của 12 ngày
đêm cuối năm 1972 ở Hà Nội, tướng Mỹ Taylor trong bài trả lời phỏng vấn hãng
tin UPI ngày 1-1-1973, nêu rõ: “Chúng tôi đã thấy cảnh tàn phá, đau thương và
chết chóc với quy mô làm cho tất cả chúng tôi đau đớn và kinh hoàng không lời
nào tả xiết. Chúng tôi đã thấy những bệnh viện, nhà cửa, khu dân cư bị tàn phá
và san bằng, những ga xe lửa và sân bay bị phá hỏng”...
Nhưng trong tiếng đạn bom rung
trời chuyển đất cũng như trong những đống đổ nát tan hoang trên mảnh đất “Thăng
Long chiến địa” vẫn sừng sững các trận địa phòng không, những tốp thanh niên
nam nữ lao nhanh về các trận địa, giúp bộ đội tiếp đạn, tải thương, thay lá
ngụy trang, khắc phục hậu quả; các bà mẹ tay xách nách mang những rổ trái cây,
ấm nước chè xanh đến từng khẩu đội thăm hỏi, động viên các pháo thủ. Khi những
ngôi nhà sụp đổ, bốc cháy rừng rực vì bị ném bom, chị em y tá, cứu thương, đội
viên dân phòng nhanh chóng xuất hiện, hối hả đào bới cứu người bị nạn, dập lửa
ở những căn nhà bị cháy, tháo gỡ những quả bom đang chờ nổ...
Trải qua 12 ngày đêm chiến đấu vô
cùng dũng cảm, kiên cường, quân dân Hà Nội cùng với Hải Phòng và toàn miền Bắc
đã làm nên Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” vang dội, đập tan cuộc
tập kích chiến lược đường không quy mô lớn nhất, tàn bạo nhất, chưa từng có trong
lịch sử thế giới.
Biểu hiện
sinh động của sức mạnh CTND trong cuộc chiến đấu 12 ngày đêm cuối năm 1972 ở Hà
Nội là hàng trăm tấm gương sáng ngời trên tất cả các lĩnh vực. Ở Nhà máy đèn Bờ
Hồ, đồng chí Dương Đức Thọ và Vũ Xuân Hòa bất chấp bom đạn địch, bám máy đến
cùng để bảo vệ dòng điện và đã anh dũng hy sinh.
Các xạ thủ xuất sắc: Nguyễn Thị
Hiếu, Nguyễn Thị Hải, Bùi Mai, Nguyễn Hùng, Phạm Thị Viễn, chỉ với súng máy cao
xạ 14,5mm trên trận địa Vân Đồn đã góp phần quan trọng bắn rơi máy bay F-111. 4
cô gái ở chòi quan sát xã Giang Biên, huyện Gia Lâm (nay là phường Giang Biên,
quận Long Biên, TP Hà Nội) không rời vị trí quan sát suốt chiến dịch, kịp thời
báo cáo về Huyện đội từng khu vực bị ném bom... (Theo cuốn "Lịch sử Đảng
bộ TP Hà Nội (1930-2000)", Nxb Hà Nội, 2004, tr.473-474).
Đồng hành với quân dân Hà Nội,
đồng bào miền Nam ruột thịt và quân dân cả nước luôn dõi theo, hòa nhịp vào
“bản hợp xướng” của thế trận CTND đánh địch. Ở TP Hải Phòng, quân và dân nơi
đây đã anh dũng chiến đấu, trực tiếp bắn rơi 17 máy bay các loại của đế quốc
Mỹ. Quân và dân tỉnh Thái Nguyên bắn rơi 2 máy bay B-52. Quân và dân các tỉnh:
Hà Bắc (nay là Bắc Ninh và Bắc Giang), Quảng Ninh, Vĩnh Phú (nay là Vĩnh Phúc
và Phú Thọ), Hà Tây (nay thuộc TP Hà Nội)... cũng tích cực "chia lửa"
với Thủ đô, góp phần phân tán lực lượng kẻ thù, buộc máy bay địch vào
"bẫy" phòng không.
Bên cạnh đó, tham gia chiến đấu,
phục vụ chiến đấu và lao động, sản xuất tại Thủ đô trong 12 ngày đêm đánh địch
tập kích đường không chiến lược năm 1972 còn có hàng chục nghìn người con ưu tú
của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Những thành tích, kinh nghiệm quý trong
chiến đấu, lao động, sản xuất của quân và dân các địa phương cũng được chia sẻ
để quân và dân Hà Nội vận dụng, góp phần giành thắng lợi vang dội.
bài viết rất thực tế
Trả lờiXóa