Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 28 tháng 8, 2023

NVH40 - Cái gọi là “thư ngỏ” của một vài tổ chức nhân danh quốc tế về nhân quyền gửi tới các quốc gia thành viên Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) nhằm vận động không bỏ phiếu cho Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 thật thiếu cơ sở.

 

Ngoài việc thường xuyên “đâm bị thóc, chọc bị gạo” vấn đề nhân quyền của các quốc gia mà họ thù địch, thì vài tổ chức nhân danh quốc tế về nhân quyền này đã làm được gì để quyền con người trên thế giới tốt đẹp hơn? Thật lố bịch khi họ lại tự cho mình có quyền phán xét, mặc cả, ra điều kiện về nhân quyền đối với các quốc gia có chủ quyền như Việt Nam.

Một bản kiến nghị “tổ ong”

Tổ ong có hình thức thủng lỗ chỗ. Thư ngỏ của một số tổ chức này giống như một tổ ong. Nó chỉ có phần lõm mà không có phần lồi. Thôi thì vẫn còn một chút niềm tin vớt vát rằng, nhiều khả năng nguồn thông tin mà các tổ chức nhân danh nhân quyền này tiếp nhận được về Việt Nam thông qua một lăng kính méo mó.

Vì họ không được mắt thấy, tai nghe, tiếp nhận thông tin sai lệch nên họ mới đưa ra kiến nghị rằng “Việt Nam là một quốc gia vi phạm nhân quyền nghiêm trọng và triền miên, không tuân thủ các cam kết, có thành tích hợp tác kém với Hội đồng Nhân quyền (HRC)”.

Họ tiếp tục chụp mũ: Tình hình nhân quyền đang xấu đi ở Việt Nam như đàn áp các tổ chức phi chính phủ, các nhà báo độc lập, các nhóm tôn giáo, những người bảo vệ môi trường và đất đai, những người ủng hộ nhân quyền...

Trong khi đó, báo cáo của họ lại phớt lờ, không đề cập đến những thành tựu với sự nỗ lực không mệt mỏi mà Việt Nam đã đạt được khi phấn đấu cho quyền con người. Những thành tựu ấy không chỉ được “tai nghe, mắt thấy” ở Việt Nam, mà còn được chính các tổ chức lớn của LHQ báo cáo, đánh giá định kỳ, như Chương trình Phát triển của LHQ (UNDP); Tổ chức Y tế thế giới (WHO) hay chính Hội đồng Nhân quyền (HRC)...

Đến đây thì "thư ngỏ" đã “lòi đuôi cáo” khi nó rất không công bằng, cố tình chỉ thấy cây mà không chịu thấy rừng. Không chỉ dịp này, năm nào cũng vậy, họ luôn cùng nhau “tiền hô hậu ủng” để cho ra đời những bản báo cáo về nhân quyền đầy màu sắc chính trị, sai sự thật để chống phá Việt Nam và một số quốc gia mà họ cho là đối lập về hệ tư tưởng.

Điều đầu tiên cần nói rõ, những tổ chức nhân danh nhân quyền trên không có tư cách để đánh giá, chấm điểm, xếp loại về nhân quyền ở Việt Nam, chứ chưa nói đến việc làm sai trái khi cố tình gửi yêu sách đến LHQ.

Chính lịch sử hàng trăm năm đấu tranh cho sự tiến bộ của loài người, vì quyền con người, các quốc gia trong mái nhà chung LHQ đã thống nhất một quan điểm: “Áp đặt tiêu chuẩn dân chủ, nhân quyền cho một quốc gia là vô lý”. Các nước trên thế giới ở những trình độ phát triển khác nhau, thể chế chính trị khác nhau nên không thể lấy giá trị, tiêu chuẩn về dân chủ, nhân quyền của nước này áp đặt cho nước khác. Các văn kiện pháp lý về quyền con người được LHQ quy định rất rõ ràng.

Không quốc gia nào, kể cả LHQ, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia, chứ đừng nói gì đến các tổ chức nhân danh. Mục 7, Điều 2, Chương I, Hiến chương LHQ khẳng định: “Hiến chương này hoàn toàn không cho phép LHQ được can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào...”.

Trong môi trường hội nhập, sự trao đổi, hợp tác, đối thoại trên lĩnh vực quốc tế về nhân quyền là rất quan trọng, vì có thể bổ sung thêm cơ chế, kinh nghiệm trong việc bảo đảm quyền con người, tuy nhiên, theo các quy định pháp lý, nó chỉ nhằm bổ sung chứ không thể thay thế các cơ chế về bảo đảm quyền con người đang vận hành tại các quốc gia.

Vậy thì mấy tổ chức nhân danh nhân quyền kia lấy tư cách gì để đòi tước tư cách một quốc gia có chủ quyền như Việt Nam? Họ chẳng có tư cách gì!

Sự thật không như họ nói

Cùng với việc bác bỏ nội dung sai sự thật, không khách quan với định kiến xấu mà một số tổ chức nhân danh nhân quyền quốc tế đã đưa ra về tình hình Việt Nam, ngày 22-9, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, về việc Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh, những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người trong thời gian vừa qua đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Chúng ta hãy kiểm chứng lời của người phát ngôn:

Trước tiên, xin được dẫn đánh giá của bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam qua Báo cáo phát triển con người toàn cầu năm 2020: “Với chủ trương phát triển lấy con người làm trung tâm, ưu tiên phát triển con người và thúc đẩy bình đẳng trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, Việt Nam đạt được mức phát triển con người cao. Đây là một thành tựu đáng ghi nhận và cũng tạo cơ hội cho sự phát triển tốt hơn, nhanh hơn trong giai đoạn tới”.

Từ nhiều năm nay, LHQ luôn lấy Việt Nam là một điểm sáng về phát triển con người, nhất là trong thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo, về công bằng và tiến bộ xã hội. Việt Nam nằm trong số những quốc gia đạt tốc độ giảm đói nghèo nhanh nhất thế giới. 

Năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành "Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa nghèo", về đích trước gần 10 năm so với thời hạn. Cũng theo bà Caitlin Wiesen, quốc tế nhìn nhận rất tích cực những thành quả Việt Nam đạt được trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo trong vài thập kỷ vừa qua.

Đảng, Nhà nước ta luôn xác định chính sách nhất quán của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, lấy con người là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Lấy con người là trung tâm của phát triển và được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển”(1).

Chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam là công bằng, hướng tới mọi đối tượng, không chỉ chú trọng phát triển kinh tế ở thành thị, mà luôn dành nguồn lực lớn, sự quan tâm sâu sắc tới xây dựng nông thôn mới, chăm lo đời sống người nông dân. Qua từng năm, hầu hết các chỉ tiêu về phát triển văn hóa, xã hội đều thay đổi nhanh chóng.

Một điểm đặc biệt của Việt Nam được quốc tế đánh giá rất cao, đó là đất nước rất chú trọng đến Chỉ số phát triển con người (HDI), dù kinh tế chưa đạt được như các nước tiên tiến. Báo cáo hằng năm của UNDP cho thấy, Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất thế giới. Nếu năm 1990, HDI của Việt Nam chỉ đạt mức thấp là 0,48 thì đến năm 2021, HDI của Việt Nam được UNDP công bố là 0,703, xếp thứ 115 trong số 191 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cùng với quan tâm phát triển con người, quyền của các nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật... có những bước tiến rõ rệt.

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua; được LHQ đánh giá là điểm sáng về thực hiện bình đẳng giới trong thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ. 

Phát biểu tại phiên họp cấp cao Khóa họp thường kỳ lần thứ 46 Hội đồng Nhân quyền LHQ ngày 22-2-2021, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh (nay là Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ) khẳng định: "Là một thành viên tích cực của LHQ cũng như cộng đồng quốc tế, Việt Nam khẳng định thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người, và luôn nỗ lực thúc đẩy phát triển quyền con người cả ở trong nước cũng như trên thế giới".

Một quốc gia có trách nhiệm giữa nói và làm

Cũng tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao ngày 22-9 vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định: "Chính sách nhất quán của Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người. Điều này đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp 2013 và nhiều văn bản pháp luật khác có liên quan".

Quyền con người ở Việt Nam đã được thể hiện toàn diện, đầy đủ trong hiến pháp-đạo luật nền tảng của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến pháp 2013, đã quy định rất rõ các quyền dân sự, chính trị; các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; các quyền của nhóm dễ bị tổn thương. Đặc biệt, Hiến pháp 2013 đã dành riêng một chương gồm 36 điều chế định và hiến định rõ ràng các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Đây là bản hiến pháp được quốc tế đánh giá là đỉnh cao trong hoạt động lập hiến bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nó phù hợp với thực tiễn Việt Nam và với chuẩn mực quốc tế về quyền con người. Đơn cử như Điều 24 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”.

Cùng với hiến pháp và các bộ luật, đến nay Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người, như: Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Công ước về quyền trẻ em; Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người; Công ước về quyền của người khuyết tật...

Dù là quốc gia phải chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh tàn phá, nhưng đến nay, chúng ta có quyền tự hào, tự tin khi Nhà nước Việt Nam đã xây dựng được hệ thống pháp luật khá toàn diện, trong đó lấy con người làm trung tâm.

Việc Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 là phù hợp với thực tiễn. Việt Nam không những đã có nhiều đóng góp tích cực mà còn có kinh nghiệm khi phấn đấu cho quyền con người.

Trước đó, năm 2013, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu 184/192, cao nhất trong số các nước thành viên mới. Khi đó, những sáng kiến của Việt Nam trong nhiệm kỳ 2014-2016 được quốc tế đánh giá cao, tiêu biểu như việc Việt Nam phối hợp cùng các quốc gia khác đưa ra: Vấn đề về bảo đảm quyền lao động của người khuyết tật; về bảo đảm môi trường làm việc an toàn cho người lao động trên biển; Nghị quyết về tác động của biến đổi khí hậu với quyền trẻ em; về nâng cao giáo dục trong phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em gái... 

Việc Việt Nam tiếp tục ứng cử là thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 là hoàn toàn xứng đáng. ASEAN cũng đã chính thức công nhận Việt Nam là ứng cử viên duy nhất của khối. Đó là minh chứng xác đáng cho những thành tựu và nỗ lực không ngừng của Việt Nam cho một cuộc sống tươi đẹp trên hành tinh xanh.

Việt Nam ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 cùng nhiều cam kết, ưu tiên với thông điệp “Tôn trọng và Hiểu biết-Đối thoại và Hợp tác-Tất cả các quyền con người cho tất cả mọi người”. Việt Nam cũng đã được Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ủng hộ là ứng cử viên duy nhất của hiệp hội cho nhiệm kỳ này.

 

NVH40 - Những thành tựu nổi bật của giáo dục Việt Nam

 

 Từ một quốc gia có 95% dân số mù chữ, trải qua 76 năm với nhiều nỗ lực, nền giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng.  

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tố cáo tội ác của thực dân Pháp, trong đó có vấn đề về giáo dục. Người nêu: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. (…) Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân”.

“Ngu dân” là chính sách thâm độc được thực dân Pháp thực hiện trong suốt thời gian chúng xâm lược và đô hộ nước ta. Chúng đầu độc dân ta bằng rượu và thuốc phiện, đồng thời hạn chế các hoạt động giáo dục. Âm mưu đồng hóa dân ta, thực dân Pháp tìm cách phủ nhận văn hóa truyền thống; về mặt giáo dục, chúng bỏ chữ Hán và chữ Nôm ra khỏi chương trình dạy học và thay thế bằng chữ Pháp, còn chữ viết thì dùng chữ quốc ngữ. Các nhà nghiên cứu cho rằng, khi xây dựng nền giáo dục ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, người Pháp có ba mục đích. Thứ nhất và quan trọng nhất là nhằm đào tạo lớp người thừa hành chính sách của Pháp là cai trị, khai thác ở Việt Nam và cả Đông Dương. Thứ hai là truyền bá tư tưởng Pháp, lòng biết ơn sự khai hóa của Pháp và sự trung thành với Pháp. Thứ ba là để mị dân, làm người Việt tin rằng hệ thống giáo dục của Pháp ở Việt Nam là văn minh và tiến bộ. Với hai mục đích đầu là căn bản, mục đích thứ ba để đối phó nên hệ thống giáo dục phổ thông Pháp - Việt do Pháp thiết lập rất nhỏ, vì chỉ nhằm đào tạo một số người đáp ứng mục tiêu cai trị của người Pháp. 

Sau Cách mạng tháng Tám, xác định “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, ngay ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xếp tiêu diệt giặc dốt là nhiệm vụ thứ hai trong 6 nhiệm vụ cấp bách của chính quyền. Ngày 8/9/1945, Người ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ để xóa nạn mù chữ. Trong bài Chống nạn thất học đăng trên Báo Cứu quốc ngày 4/10/1945, Người nhấn mạnh: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Người kêu gọi: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ… Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết”. Chỉ trong một năm (từ tháng 9/1945 đến 8/1946), phong trào bình dân học vụ đã giúp cho hơn 2,5 triệu người biết chữ.

Trong thời gian diễn ra kháng chiến, công tác giáo dục tiếp tục duy trì với việc mở lại trường cũ, xây mới trường học các cấp, chú trọng đào tạo giáo viên… Trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), số trường học, học sinh, giáo viên đều tăng nhanh. Năm học 1945 - 1946, cả nước chỉ có 3.500 giáo viên tiểu học, 95 giáo viên trung học, đến năm 1950 đã có 10.500 giáo viên tiểu học, 584 giáo viên cấp II và 31 giáo viên cấp III[1]. Giữa năm 1950, cả nước có gần 12,2 triệu người biết chữ; 10 tỉnh với 80 huyện, hơn 1.400 xã và 7.200 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ. Đến năm học 1975 – 1976, năm đầu tiên sau khi thống nhất đất nước, số trường đại học tăng 19,5 lần, trường trung cấp chuyên nghiệp tăng 29,1 lần, số sinh viên tăng 50,9 lần so với năm học 1955 – 1956…

Trong 3/4 thế kỷ qua, nền giáo dục nước ta đã thực hiện nhiều cuộc cải cách. Cải cách giáo dục đầu tiên vào năm 1950, chuyển cấp “trung học chuyên khoa” học 3 năm chuyên ban thành “phổ thông cấp III” không chuyên ban. Cải cách thứ hai vào năm 1956 sáp nhập hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm và 12 năm đang tồn tại song song ở miền Bắc thành hệ thống giáo dục mới 10 năm. Đến đầu năm 1979, thống nhất hệ thống phổ thông 12 năm ở miền Nam và hệ thống 10 năm ở miền Bắc bằng một hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm mới. Cải cách gần đây nhất vào năm 2013, được đánh giá có tính toàn diện, triệt để bằng Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013, trên tinh thần “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

Hiện giáo dục Việt Nam tiếp tục có nhiều thành tựu nổi bật. Trong đó, sau 10 năm thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi (2010 - 2020), số trường mầm non tăng hơn 2.600 trường. Mỗi xã phường đều có ít nhất 1 trường mầm non công lập. Số trẻ đến trường tăng hơn 1,5 triệu em so với năm học 2010 - 2011. Tỷ lệ trẻ 5 tuổi hoàn thành chương trình giáo dục mầm non đạt 99,9%. Về cấp tiểu học, 63/63 tỉnh thành đều đạt chất lượng phổ cập mức độ 2, trong đó 4 địa phương đạt mức độ 3. Cả 63/63 tỉnh thành đều đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS cấp độ 1, một số địa phương đạt mức độ 2 và 3[2].

Năm học 2020 - 2021, cả nước có hơn 5 triệu trẻ mầm non, hơn 8,8 triệu học sinh tiểu học, hơn 5,9 triệu học sinh THCS, hơn 2,7 triệu học sinh THPT; tổng số phòng học là 593.808 phòng (tăng 3.504 phòng so với năm học trước), trong đó phòng học kiên cố chiếm 70,5%. Riêng bậc THPT, cả nước có có 2.543 trường (tăng 144 trường), 59.686 lớp; trong số này có 45,33% số trường đạt chuẩn quốc gia và 40,22% số trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục; có 135.875 giáo viên, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn là 99,78% (tăng 2,8% so với năm học trước).

Trên cơ sở những thành tựu đạt được trong 76 năm qua, Đại hội XIII của Đảng đã định hướng phát triển giáo dục Việt Nam cho thời kỳ tới, trong đó có một số điểm nổi bật như: thay vì chỉ nhấn mạnh vào “phát triển nhanh giáo dục và đào tạo” như trước đây, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 đề cập trực tiếp việc “phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”. Phương hướng “giáo dục là quốc sách hàng đầu” được xác định theo hướng mới: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”. Không chỉ vậy, giáo dục Việt Nam còn hướng đến sự phát triển đột phá và nâng cao chất: “Có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới”…

NVH40 - Hữu nghị và hợp tác luôn là dòng chảy chính trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

 

73 năm qua kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc (18/1/1950) cho đến nay, mặc dù có những thăng trầm nhưng hữu nghị và hợp tác luôn là dòng chảy chính trong quan hệ giữa hai nước.

Chuyến thăm chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam, từ ngày 30/10/2022 đến ngày 1/11/2022, đã thành công tốt đẹp và để lại những dấu ấn quan trọng trong quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước.

Chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Trung Quốc cũng được các chuyên gia, truyền thông trong nước và nước bạn đánh giá cao; coi đây là sự kiện vượt lên ý nghĩa của một chuyến thăm thông thường. 

Làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước

Trao đổi với Báo Điện tử Chính phủ về những thành công trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Văn Thơ nhấn mạnh, chuyến thăm có ý nghĩa rất quan trọng trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến hành thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng để thực hiện mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. 

Trung Quốc cũng vừa tiến hành thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XX Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra những mục tiêu phấn đấu "100 năm lần thứ 2", xây dựng Trung Quốc là cường quốc xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, hiện đại, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp.

Đây cũng là chuyến thăm đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc kể từ sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên sang thăm Trung Quốc sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XX Đảng Cộng sản Trung Quốc. 

"Điều đó thể hiện sự coi trọng của Việt Nam trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác với Trung Quốc và Trung Quốc cũng coi trọng quan hệ hợp tác với Việt Nam. Còn nhớ cách đây 5 năm, sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình cũng chọn Việt Nam là nước đầu tiên đi thăm", nguyên Đại sứ Nguyễn Văn Thơ chia sẻ. 

Theo nguyên Đại sứ Nguyễn Văn Thơ, chuyến đi trong bối cảnh tình hình thế giới phát triển nhanh chóng, phức tạp, khó lường chưa từng có, như Trung Quốc đã đánh giá về cục diện thế giới là đang biến động chưa từng có trong vòng 100 năm qua. 

Lãnh đạo hai nước đã đạt được những nhận thức chung rất quan trọng, để làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc; đưa quan hệ hai nước đi vào chiều sâu, thực chất hơn, hiệu quả hơn trên cơ sở phương châm 16 chữ: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần 4 tốt: "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt". 

Nhận thức chung đó đã được thể hiện rất rõ trong Tuyên bố chung Việt Nam–Trung Quốc ngày 1/11/2022. 

Hai bên đã đạt được những thỏa thuận quan trọng trên nhiều lĩnh vực từ xây dựng Đảng; hợp tác giữa các bộ, ngành; hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa, giáo dục, đào tạo, giao lưu nhân dân… rất toàn diện. Khẳng định hai bên mong muốn đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới, ổn định hơn, lành mạnh hơn và thực chất hơn. 

Hai bên cũng bàn rất sâu rộng về tình hình thế giới, đạt được những nhận thức chung rất quan trọng, tăng cường phối hợp hợp tác trên các diễn đàn quốc tế đa phương để cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định, phát triển phồn vinh ở khu vực và trên thế giới. Điều đó rất quan trọng trong bối cảnh trong nước của hai nước và tình hình quốc tế hiện nay. 

Nguyên Đại sứ Nguyễn Văn Thơ cho rằng, tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, khó lường chưa từng có, lãnh đạo hai nước đã trao đổi, bàn bạc, xác định những đồng thuận để duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. 

Việt Nam sẵn sàng tham gia sáng kiến của Trung Quốc như sáng kiến phát triển toàn cầu một cách phù hợp với tình hình, nhu cầu của Việt Nam. Việt Nam cũng ghi nhận một cách tích cực sáng kiến về an ninh toàn cầu của Trung Quốc trên cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc và hợp tác quốc tế. 

"Hai bên có nhiều nhận thức chung về tình hình thế giới hiện nay, cùng nhau phối hợp, hợp tác trên các diễn đàn đa phương như: ASEAN, APEC, Liên Hợp Quốc… hay những tổ chức quốc tế đa phương khác, tạo môi trường hòa bình, ổn định cho Việt Nam và Trung Quốc phát triển. Đồng thời, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. 

Tất cả những điều đó đều được khẳng định trong Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc rất rõ ràng", nguyên Đại sứ Nguyễn Văn Thơ nói. 

Tin cậy chính trị cao hơn; hợp tác thực chất, hiệu quả hơn, nền tảng xã hội được tăng cường

Đề cập đến những dấu ấn trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc vừa qua của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nguyên Đại sứ Nguyễn Văn Thơ cho rằng, hai nước đều mong muốn thúc đẩy quan hệ Việt Nam-Trung Quốc lên tầm cao mới với 3 điểm "hơn": 

Thứ nhất, là tin cậy chính trị cao hơn thể hiện qua nghi thức đón tiếp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của lãnh đạo Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc rất trọng thị, nồng ấm. 

Có thể nói, trao đổi cấp cao giữa hai nước diễn ra thường xuyên, mặc dù từ năm 2020 đến nay do ảnh hưởng của dịch COVID-19, hai bên không giao lưu, gặp gỡ trực tiếp nhưng đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã 4 lần điện đàm, trao đổi những vấn đề hai nước quan tâm. 

Chuyến thăm cấp cao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ chế không thể thay thế nhằm định hướng cho phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước trong thời gian tới. 

Chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lần này cho thấy tin cậy chính trị giữa hai nước được nâng lên; lãnh đạo hai Đảng, hai nước cũng khẳng định phải tăng cường tin cậy chính trị giữa hai nước. 

Thứ hai, là thông qua những Hiệp định, thỏa thuận đã ký kết, hai bên mong muốn hợp tác giữa hai nước thực chất hơn, hiệu quả hơn được thể hiện trên nhiều lĩnh vực từ: Kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, giao lưu nhân dân… 13 văn kiện hợp tác giữa hai Đảng, hai nước được ký kết trong chuyến thăm của Tổng Bí thư đến Trung Quốc đều thể hiện điều đó. 

Thứ ba, là tăng cường nền tảng xã hội cho quan hệ hợp tác hữu nghị hai nước vững chắc hơn. Trong thỏa thuận tăng cường giao lưu nhân dân giữa các cấp, các ngành, các địa phương tạo đồng thuận xã hội, tạo nền tảng xã hội, nền tảng về ý dân, có lợi cho việc thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước. 

Điều đặc biệt quan trọng là hai bên đã bàn và xây dựng thẳng thắn về những vấn đề còn bất đồng giữa hai nước, nhất trí giải quyết những bất đồng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; thông qua thương lượng, hòa bình, giải quyết các mâu thuẫn trên cơ sở Luật pháp quốc tế, trong đó có công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, không làm phức tạp thêm tình hình, không mở rộng thêm tranh chấp, bất đồng; tăng cường hợp tác trên biển, hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển để khu vực biển Đông là khu vực hòa bình, hợp tác, hữu nghị. Đó là những điểm toát lên nhất của chuyến thăm Trung Quốc lần này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. 

Khẳng định quyết tâm để duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới 

Nguyên Đại sứ Nguyễn Văn Thơ cho biết, 72 năm qua kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc (ngày 18/1/1950) cho đến nay, mặc dù có những thăng trầm nhưng dòng chảy chính vẫn là hợp tác và hữu nghị. Hiện nay, giữa Việt Nam và Trung Quốc tồn tại 3 vấn đề do lịch sử để lại, 2 vấn đề đã được giải quyết. 

Vấn đề thứ nhất là hoàn thành phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới. Đây thành tựu to lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam; tạo biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, tăng cường hợp tác hai bên cùng có lợi. 

Vấn đề thứ hai là đã hoàn thành phân định Vịnh Bắc Bộ rất rõ ràng, tạo điều kiện cho hai bên giao thương, làm ăn diễn ra được thuận lợi. 

Còn duy nhất vấn đề biển Đông, nguyên Đại sứ Nguyễn Văn Thơ cho rằng, vấn đề này không thể giải quyết trong một sớm, một chiều. Hai bên nhận thức được điều đó, đây cũng là tồn tại khách quan. Lãnh đạo hai nước cũng nhiều lần bàn về vấn đề này và đạt được những thỏa thuận chung rất quan trọng là phải giải quyết trên cơ sở Luật pháp quốc tế, trên cơ sở thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. 

Hai bên lần này cũng nhất trí tích cực thúc đẩy bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển và bàn bạc về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy hai việc trên sớm đạt tiến triển thực chất. Hai bên sẵn sàng tiếp tục tích cực triển khai hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển; tích cực trao đổi về đi sâu, mở rộng hợp tác trên biển tại Vịnh Bắc Bộ trên cơ sở đáp ứng lợi ích thiết thực của cả hai bên. Những điều này thể hiện rất rõ, cụ thể trong Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc, thể hiện hai bên đã bàn bạc rất thẳng thắng, rất xây dựng, trách nhiệm. 

"Hy vọng với quyết tâm của hai Đảng, hai Nhà nước chúng ta sẽ tìm ra giải pháp để duy trì hòa bình, ổn định, cơ bản, lâu dài về vấn đề này nhằm thúc đẩy hợp tác, hữu nghị, theo phương châm 16 chữ và tinh thần láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí  tốt, đối tác tốt mà hai Đảng, hai nước đã nhiều lần khẳng định", nguyên Đại sứ Nguyễn Văn Thơ nhấn mạnh. 

Cùng nhau thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Trung Quốc ngày càng phát triển lành mạnh, ổn định

Đề cập đến đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, trong đó có công tác đối ngoại nhân dân với Trung Quốc thời gian qua, nguyên Đại sứ Nguyễn Văn Thơ nhấn mạnh, Việt Nam rất coi trọng đối ngoại nhân dân, coi đây là một trong 3 trụ cột của hoạt động đối ngoại bao gồm, đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân. 

Từ đó tạo thành 3 mặt trận để tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, là đối tác tin cậy với các nước. 

Ngoại giao nhân dân với Trung Quốc trong thời gian qua có nhiều hoạt động sôi nổi. Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, chưa đầy 1 tháng sau, Hội Nghị hữu nghị Việt-Trung đã được thành lập nhằm thúc đẩy tạo nền tảng xã hội, tăng cường hữu nghị hợp tác lẫn nhau, ủng hộ lẫn nhau trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở cả hai nước. 

Trong thời gian qua, ngoại giao nhân dân đã đạt được những thành tựu quan trọng, trong đó có tổ chức các diễn đàn nhân dân giữa hai bên; trao đổi rất thẳng thắn, xây dựng về những vấn đề liên quan giữa hai nước, làm cơ sở gợi ý chính sách cho Đảng và Chính phủ trong việc thúc đẩy quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc phát triển lành mạnh, ổn định ngay cả trong thời kỳ hai nước còn khó khăn, góp phần tăng cường hữu nghị, tin cậy giữa nhân dân hai nước. 

Nhiều hoạt động như: Diễn đàn nhân dân, giao lưu nhân biên giới, giao lưu hữu nghị Việt - Trung, Du lịch đỏ theo chân Bác, triển lãm ảnh, giao lưu văn hóa nghệ thuật, tri ân những đóng góp, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ, Pháp, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; đón tiếp các đoàn cựu chiến binh, thân nhân của gia đình, cố vấn chuyên gia sang giúp đỡ Việt Nam… được tổ chức. 

Thông qua những hoạt động gắn bó trên cho thấy, Việt Nam không quên sự giúp đỡ to lớn của Đảng, Chính phủ Trung Quốc; đồng thời góp phần giúp thanh niên hai nước hiểu hơn về tình hữu nghị giữa hai quốc gia, dân tộc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo tiền bối đích thân gây dựng, dày công vun đắp, là tài sản quý báu của nhân dân hai nước, cần tiếp tục được kế thừa tốt, bảo vệ tốt và phát huy tốt như trong Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc đã khẳng định.

 

 

NVH40 - Cảnh giác với tà đạo Pháp Luân Công

 

Pháp Luân Công (còn gọi là “Pháp luân đại pháp”) là một giáo phái do Lý Hồng Chí thành lập năm 1992, tại thành phố Trường Xuân, Trung Quốc. Bề ngoài, Pháp Luân Công hoạt động dưới hình thức “Tu tâm và luyện thân”Tuy nhiên, trong thực tế, Pháp Luân Công có nhiều hoạt động rất phức tạp, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần nâng cao cảnh giác, đấu tranh với tà đạo Pháp Luân Công.

Pháp Luân Công không chỉ có phương pháp tu luyện chủ yếu là khống chế tinh thần con người, cho con người những ảo tưởng, mơ hồ như: Người có bệnh không cần phải chữa mà chỉ cần tập các bài tập khí công thì cơ thể khắc tự khỏe mạnh; chịu khó tập Pháp Luân Công sẽ được “Pháp thân của Lý Hồng Chí “Bảo hộ Bên cạnh phương pháp “Tu luyện”, Pháp Luân Công còn có nhiều hoạt động ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Ngay tại Trung Quốc, Pháp Luân Công cũng không được chính quyền chấp nhận vì đã có hàng trăm người luyện tập cuồng tín tới mức hủy hoại bản thân, thậm chí tự sát, nhiều người không tham gia cũng bị những kẻ cuống tín khác sát hại.

Tại Việt Nam, Pháp Luân Công hoạt động trái pháp luật ở hơn 30 tỉnh, thành phố với nhiều người tham gia. Trên địa bàn tỉnh Hà Giang, lực lượng chức năng của tỉnh cũng đã phát hiện các tài liệu về Pháp Luân Công. Đầu năm 2020, lực lượng chức năng đã phát hiện và xử lý một số đối tượng là người ngoài tỉnh, với danh nghĩa là khách du lịch, thực hiện việc phát tán tài liệu tuyên truyền về Pháp Luân Công tại khu vực công cộng ở thành phố Hà Giang, thị trấn Đồng Văn. Với những luận điệu dụ dỗ, mê hoặc, Pháp Luân Công lôi kéo con người vào các hoạt động ảo giác, gây hại về lợi ích, tinh thần, sức khỏe, tính mạng của bản thân, tham gia các hoạt động chính trị, chống lại Đảng và Nhà nước. Có thể kể đến một số vụ việc điển hình, có liên quan đến Pháp Luân Công ở nước ta thời gian gần đây, như:

Năm 2014, một nhóm đệ tử Pháp Luân Công do Nguyễn Doãn Kiên cầm đầu đã có hành vi kéo đổ tượng Lê-nin nhưng bất thành do đứt dây cáp. Sau đó, nhân kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam 03/02/2014, nhóm này tiếp tục cầm búa tạ tiến về phía Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh với mục đích tấn công Lăng, nhưng lập tức bị lực lượng Bảo vệ Lăng phát hiện khống chế và bắt giữ. Qua đấu tranh, khai thác, đối tượng khai nhận: Quá trình luyện tập Pháp Luân Công bản thân đã tu luyện và giác ngộ đạt Chính vương. Để được sang làm đệ tử và nối ngôi Lý Hồng Chí thì phải đập tượng Lê-nin và phá Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vì Pháp Luân Công cho rằng, Lê-nin là kẻ độc tài, Đảng Cộng sản Việt Nam là ma giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh là đại ma đầu, cần phải phá hủy.  

Năm 2019dư luận cả nước bàng hoàng trước thông tin về vụ án “Thi thể trong bê tông” xảy ra tại xã Hưng Hòa, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương. Lực lượng chức năng điều tra, làm rõ hai nạn nhân trong vụ án mạng có liên quan đến Pháp Luân Công. Một người là Trần Trí Thành (27 tuổi, tạm trú tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh) bị nhóm cùng tu luyện sát hại vì cho rằng anh đã vi phạm nguyên tắc tu luyện và sắp bị “Quỷ nhập”. Một người khác là Trần Đức Linh (50 tuổi, quê Nghệ An) nhảy lầu tự tử vì tự thấy mình đã bị “Phần quỷ” lấn át.

Gần đây nhất, lợi dụng tình hình dịch Covid-19, Pháp Luân Công tiếp tục tuyên truyền, thuyết phục người dân gia nhập để miễn nhiễm với mọi loại virus. Pháp Luân Công cho rằng dịch Covid-19 chính là biểu hiện của ngày tận thế, người tập Pháp Luân Công sẽ được tái sinh cùng vũ trụ mới, trong khi những người khác sẽ bị hủy diệt cùng vũ trụ cũ.

Từ thực tế trên, chúng ta thấy thủ đoạn của Pháp Luân Công là tuyên truyền, thuyết phục người dân tham gia bằng những điều hoang tưởng, biến con người trở thành công cụ phục vụ cho mục đích của kẻ cầm đầu. Do đó, mỗi người dân cần phải hết sức cảnh giác với hoạt động của tà đạo Pháp Luân Công, đồng thời tuyên truyền, giải thích cho đông đảo những người khác cùng nhận thức rõ vấn đề, nâng cao tinh thần cảnh giác, không để bị lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc tham gia vào tà đạo hoặc hoang mang, dao động trước những thông tin do tà đạo này phát tán, dẫn đến những hành vi tiêu cực, trước hết là ảnh hưởng đến bản thân, gia đình, xã hội, sau đó là hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và lợi ích của quốc gia.

 

NVH40 - NHẬN DIỆN ÂM MƯU,THỦ ĐOẠN HOẠT ĐỘNG, TÁC HẠI CỦA PHÁP LUÂN CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA

 

        Thời gian qua trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, hoạt động Pháp luân công có nhiều diễn biến phức tạp. Với các thủ đoạn, hoạt động vừa lén lút vừa công khai bằng các hình thức khác nhau, Pháp luân công đã gây nhiều tác động xấu đến an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh.

        Pháp luân công (hay còn gọi là “Pháp luân đại pháp”) do Lý Hồng Chí (Quốc tịch Mỹ, người Trung Quốc) sáng lập ra năm 1992, tại Đông Bắc, Trung Quốc. Năm 2001, Pháp luân công được du nhập vào Việt Nam. Quá trình hoạt động và phát triển đã gây ra nhiều phức tạp về chính trị và xã hội. Từ năm 2011 đến nay trong cả nước đã xảy ra hàng trăm vụ việc có liên quan đến hoạt động Pháp luân công, xử lý hàng trăm vụ việc tán phát tài liệu tuyên truyền Pháp luân công, thu giữ nhiều tài liệu (sách, tờ rơi, đĩa VCD, USB, loa đài, vi tính...), trong đó có những vụ thu giữ hàng tấn tài liệu, xử lý bằng pháp luật hình sự 10 trường hợp, trong đó truy tố 02 đối tượng tham gia vụ án "Đưa trái phép thông tin trên mạng viễn thông", 04 đối tượng tham gia vụ án "Gây rối trật tự công cộng" và 04 đối tượng tham gia vụ án "Cướp tài sản" và "Cướp giật tài sản".

          Để không bị các đối tượng mê hoặc, tiếp tay và tham gia Pháp luân công, bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo vào những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, cần nhận diện đúng về bản chất, thủ đoạn của Pháp luân công, cụ thể như sau:

          Pháp luân công thực chất không phải là một tín ngưỡng, tôn giáo, không có giáo lý, giáo luật hoàn chỉnh mà vay mượn, cắt xén của các tôn giáo khác để hình thành. Mục đích thực sự của Pháp luân công là “mượn vỏ bọc” của một môn khí công rèn luyện sức khỏe và lợi dụng các yếu tố tôn giáo, tâm linh để tập hợp lực lượng, lôi kéo quần chúng tham gia, khuếch trương thanh thế nhằm từng bước công khai hình thành tổ chức, đòi công nhận tư cách pháp nhân.

  - Pháp luân công lợi dụng các bài tập khí công, khuếch đại về tác dụng của việc rèn luyện khí công đối với sức khỏe, kết hợp với hình thức tu tập sử dụng yếu tố tín ngưỡng, tâm linh để dẫn dụ, lôi kéo một bộ phận nhân dân, nhất là số người đang có vấn đề về sức khỏe tin tưởng tuyệt đối rằng những người luyện tập Pháp luân công có thể tự khỏi được bách bệnh, kể cả những bệnh hiểm nghèo mà không cần dùng thuốc, không cần đến bệnh viện, Pháp luân công đã lừa gạt, mê hoặc, lôi kéo được nhiều người tham gia thuộc nhiều thành phần, nghề nghiệp, lứa tuổi, trong đó có những người bệnh, người lớn tuổi, đã nghỉ hưu...Thực tế, cho đến nay trên thế giới chưa có bất kỳ công bố khoa học nào khẳng định, hoặc công nhận tác dụng của phương pháp tu tập Pháp luân công như những gì Pháp luân công đang tuyên truyền. Nhiều người bị bệnh đã cả tin, không dùng thuốc, từ chối điều trị tại bệnh viện, lấy các bài tập Pháp luân công là phương pháp duy nhất để điều trị bệnh dẫn đến bệnh tật không thuyên giảm, một số trường hợp đã tử vong. Đáng chú ý hoạt động này còn mang màu sắc chính trị, chia rẽ mối quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia, vi phạm pháp luật, gây phức tạp về ANTT trên địa bàn.

Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, số đứng đầu các điểm nhóm Pháp luân công đã tuyên truyền, lôi kéo, tán phát tài liệu dưới nhiều hình thức đa dạng như: Tập trung đông người để luyện khí công dưỡng sinh, biểu diễn trống, Lân sư, múa quạt... miễn phí tại các sự kiện, các ngày lễ lớn..., In, phát tán các tài liệu trái phép (sách, đĩa DVD, tờ rơi...) nơi công cộng, khu đông dân cư để tuyên truyền các nội dung về Pháp luân công. Nhiều người vì quá mê muội, tin theo nên đã bỏ bê gia đình để đi quảng bá Pháp luân công, gây hệ lụy xấu cho gia đình và xã hội. Đặc biệt, vì bị mê hoặc, tin theo nội dung tuyên truyền của các đối tượng Pháp luân công, một số người khi ốm đau không chữa trị, dùng thuốc, cá biệt có một số trường hợp không tiêm phòng Vacxin phòng Covid - 19 dẫn đến hệ quả xấu về sức khỏe.

Để phòng ngừa, không để các đối tượng tuyên truyền, lôi kéo tham gia hoạt động Pháp luân công trên địa bàn tỉnh, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

          - Quán triệt nghiêm túc các quan điểm, chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung, đối với Pháp luân công nói riêng. Nhận thức đúng bản chất phản khoa học, phản văn hóa, phản xã hội của Pháp luân công; nêu cao tinh thần cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động lợi dụng Pháp luân công để chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch. Không tham gia Pháp luân công hoặc tiếp tay, cổ vũ, tuyên truyền Pháp luân công, tham gia vào các hoạt động ảnh hưởng tới an ninh, trật tự; không tham gia vào các hoạt động mê tín dị đoan khác.

          - Chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật Nhà nước, đặc biệt là Luật An ninh mạng, không truy cập vào các trang thông tin phản động và các trang mạng xã hội tuyên truyền, kêu gọi ủng hộ Pháp luân công; không đăng tải, in ấn, tán phát, chia sẻ, bình luận cổ vũ, tuyên truyền các nội dung tài liệu về Pháp luân công trên mạng internet. Tích cực tham gia các hoạt động xây dựng môi trường văn hóa ở khu dân cư; tăng cường luyện tập thể dục, thể thao, rèn luyện sức khỏe lành mạnh theo quy định.

          - Tích cực tham gia tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân; tuyên truyền cho người thân trong gia đình, bạn bè nhận thức đúng về bản chất của Pháp luân công và âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nâng cao ý thức cảnh giác, không tin, làm theo sự kích động, lôi kéo của Pháp luân công và các đối tượng xấu tham gia vào hoạt động vi phạm pháp luật. Phát huy trách nhiệm, tích cực đấu tranh phê phán bản chất phản khoa học, phản văn hóa, phản xã hội, các quan điểm sai trái ủng hộ Pháp luân công, vạch mặt âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của các đối tượng xấu và các thế lực thù địch lợi dụng Pháp luân công để gây mất an ninh, trật tự, chống phá Đảng, Nhà nước.

 

NVG40 - BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

- Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là hai mặt không tách rời của cùng một vấn đề: Giữ vững niềm tin khoa học, tiếp tục đổi mới sáng tạo, bảo vệ Đảng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì Độc lập – Tự do – Hạnh phúc của nhân dân.

- Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề nguyên tắc, là một trong những quan điểm cơ bản, trọng yếu, xuyên suốt và bao trùm trong hệ thống quan điểm lý luận của Đảng, liên quan trực tiếp đến hệ tư tưởng của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Vai trò, tầm quan trọng của tư tưởng, lý luận đã được Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng định từ đầu trong tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Ngay từ khi Đảng còn chưa ra đời, năm 1927, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh, “phải giữ chủ nghĩa cho vững”, “Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt” và chủ nghĩa chân chính, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mác – Lênin” Không giữ vững chủ nghĩa thì không thể có phương hướng chính trị đúng, không thể vạch rõ đường lối và phương pháp cách mạng, chiến lược và sách lược cách mạng để tập hợp lực lượng, gây dựng phong trào, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và quần chúng trong đấu tranh thực hiện lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.

- Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề hệ trọng đầu tiên để giữ vững bản chất của một Đảng cách mạng chân chính, liên quan trực tiếp, quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đảng ta đã xác định: Đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là đổi mới có nguyên tắc, là kiên định con đường đã lựa chọn – độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đảng ta nêu rõ, nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phải ra sức bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh kiên quyết, phản bác sự xuyên tạc, truyền bá các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực chống đối và phản động ở trong và ngoài nước nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta. Phải kiên trì lý tưởng và mục tiêu, kiên định con đường đã lựa chọn, giữ vững vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng Cộng sản, bất luận trong hoàn cảnh và tình huống nào.

- Đấu tranh có hiệu quả để vạch trần và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là thái độ và hành động tích cực, chủ động để khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thiết thực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Từ nhận thức phải dẫn đến hành động, từ giác ngộ lý luận phải dẫn đến thực hành lý luận, lý luận gắn liền với thực tiễn. Cùng với sức mạnh của khoa học, chính kết quả của hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, biến khát vọng thành hiện thực, làm cho nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, một nước phát triển, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ này, làm cho Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, cả nước đồng lòng, nhân dân tin tưởng, gắn bó mật thiết với Đảng, với chế độ và Quân đội ta “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”như Bác Hồ chỉ dẫn thì đó là sức mạnh tổng hợp để mọi quan điểm sai trái, thù địch không còn có thể nhiễm độc trong đời sống tinh thần của con người và xã hội. Sự nghiệp của Đảng, của dân càng thu được những thành tựu to lớn, chính trị – xã hội ổn định, kinh tế phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, uy tín quốc tế của Việt Nam được nâng cao thì đó sẽ là minh chứng thực tiễn có sức thuyết phục lớn nhất, bền vững nhất về bản chất khoa học – cách mạng – nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng của Đảng.

 

NVG40 - GIÁ TRỊ DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI TRONG BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP 2/9/1945

 

78 năm trôi qua, song đến hôm nay và cả muôn sau, Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 vẫn vẹn nguyên giá trị dân tộc và thời đại.

Người ta đã gọi bản Tuyên ngôn lịch sử này là “Thiên cổ hùng văn”, là bản Tuyên ngôn Độc lập thứ ba của dân tộc Việt Nam - sau bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” thế kỷ XI của Lý Thường Kiệt và “Bình Ngô đại cáo” thế kỷ XV của Nguyễn Trãi. Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam) cho thấy trí tuệ sắc sảo, tư duy lỗi lạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là kết quả của một quá trình tư duy khoa học, độc đáo và thiên tài của Người.

Bản Tuyên ngôn Độc lập được dư luận trong và ngoài nước đánh giá rất cao bởi trong đó hàm chứa những nội dung cốt lõi, cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định chủ quyền quốc gia của một dân tộc và giá trị về quyền con người của người dân một nước độc lập. Có thể rút ra nhiều điều về lý luận lẫn thực tiễn được đúc kết một cách hàm súc, gói gọn trong 1.120 từ, bao gồm 49 câu của bản Tuyên ngôn lịch sử đó.

Trước hết, Tuyên ngôn Độc lập đã nâng tầm quyền con người thành quyền dân tộc. Không chỉ dừng lại ở một tuyên bố về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà Tuyên ngôn còn mang tính thời đại rất sâu sắc. Đó là, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân được gắn liền với quyền bình đẳng thiêng liêng giữa các dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh viện dẫn hai bản Tuyên ngôn của hai quốc gia lớn, văn minh hàng đầu thế giới là Mỹ và Pháp để mọi người thấy rõ hơn quyền con người và quyền dân tộc là một hiện thực khách quan không thể tách rời.

Qua bản Tuyên ngôn khẳng định, xuất phát từ quyền con người, thông qua quyền con người để xác lập quyền dân tộc, bởi quyền con người chính là cơ sở nền tảng để thiết lập quyền dân Bản Tuyên ngôn Độc lập là giá trị trường tồn, định hướng cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Gần 90 năm trong “đêm trường nô lệ”, biết bao thế hệ người Việt Nam đã hy sinh chiến đấu cho khát vọng độc lập dân tộc. Tuyên ngôn không chỉ kết tinh các giá trị truyền thống anh hùng, ý chí đấu tranh bất khuất cho một nước Việt Nam độc lập, tự do mà còn là sự động viên, cổ vũ, khích lệ Nhân dân các nước thuộc địa, các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa thực dân, giành quyền tự quyết cho đất nước mình.

Tuyên ngôn Độc lập còn khẳng định với thế giới về một đất nước Việt Nam sẽ hồi sinh mãnh liệt, tiếp tục hướng tới một tương lai tươi sáng, đấu tranh vì độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong cuộc hành trình đó, “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Qua Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cuộc đấu tranh giành tự do độc lập của dân tộc Việt Nam là chính nghĩa. Một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít, dân tộc đó phải được tự do, độc lập. Và, Nhân dân Việt Nam sẽ bằng mọi giá để giữ vững nền độc lập của mình.

Giá trị dân tộc và thời đại trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9 còn minh chứng một sách lược mềm dẻo, linh hoạt về đối ngoại, tinh thần nhân văn cao cả, tính hòa hiếu của một dân tộc “muốn là bạn với các nước”. Việt Nam luôn kiên định và sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước, kể cả các nước có quá khứ là thù địch nhưng nay công nhận nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

78 năm qua, tư tưởng của Tuyên ngôn Độc lập đã trở thành sức mạnh to lớn, kim chỉ nam hành động cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, trong bối cảnh thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện đoàn kết xung quanh Đảng và Nhà nước, thực hiện trọn vẹn lời thề thiêng liêng trong ngày lễ Độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”./.

 

NVG40 - ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP - NGƯỜI THỰC HIỆN XUẤT SẮC TƯ TƯỞNG “CHÍNH TRỊ TRỌNG HƠN QUÂN SỰ” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH!

 

Tư tưởng “chính trị trọng hơn quân sự” được lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ rõ từ trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.

Đó là sự phát triển quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề con người, là sự phát huy truyền thống của dân tộc. Để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vấn đề đầu tiên và trước hết phải từ con người. Do đó, yếu tố chính trị phải đặt lên hàng đầu, mục tiêu chính trị là trên hết. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp thực hiện xuất sắc khi được giao nhiệm vụ xây dựng, chỉ huy Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam.

Thứ nhất , đồng chí VÕ NGUYÊN GIÁP thực hiện xuất sắc tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh về đẩy nhanh việc tổ chức đội quân chủ lực đầu tiên với phương châm “chính trị trọng hơn quân sự”.

Sau 30 năm ra nước ngoài tìm đường cứu nước, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người lựa chọn địa điểm thuộc xã Nà Sác, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng làm căn cứ để cùng với cơ quan Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng. Đầu tháng 10-1944, đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Vũ Anh gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh để báo cáo tình hình phong trào cách mạng ở vùng Cao-Bắc-Lạng và cả nước.

Sau khi nhận định, đánh giá tình hình, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị: Phải thành lập đội vũ trang, lựa chọn các đội viên là những người kiên quyết, hăng hái trong công tác, dũng cảm trong chiến đấu, có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc vào đội. Phải cân nhắc từng người một, các cán bộ chỉ huy tiểu đội, trung đội chủ yếu lấy trong số cán bộ đi học quân sự ở nước ngoài về. Phải lựa chọn những người đã trải qua chiến đấu, ít nhiều biết về kỹ thuật và kinh nghiệm quân sự, phải có đủ thành phần dân tộc, người địa phương nào cũng có, nhằm phục vụ cho hoạt động được thuận lợi. Thời gian thành lập chậm nhất là vào hạ tuần tháng 12-1944 và khi thành lập phải có những lời thề danh dự... Thành lập xong, ra quân hành động có tính chất quần chúng; trận đầu mặc dù đội quân mới thành lập còn non yếu nhưng phải chiến thắng.

Thực hiện chỉ dẫn của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng đồng chí Lê Quảng Ba họp bàn, khẩn trương xây dựng tổ chức biên chế đội vũ trang theo đúng yêu cầu của Người. Về tên gọi của đội, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã cùng với các đồng chí chủ trì thống nhất lấy tên là “Ðội Việt Nam Giải phóng quân”. Sau khi báo cáo, lãnh tụ Hồ Chí Minh thêm hai từ “tuyên truyền” vào tên đội và duyệt danh sách cán bộ, đội viên của đội. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền” ("Hồ Chí Minh toàn tập", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.539).

Ngày 22-12-1944, tại khu rừng Sam Cao nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám, tỉnh Cao Bằng, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tuyên bố Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời chỉ có 34 đội viên, với các thành phần dân tộc trên địa bàn, vũ khí thô sơ, thiếu thốn về hậu cần, nhưng sau khi thành lập, Đội đã đánh thắng hai trận đầu tiên ở Phai Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Sau hai trận này, quân số của Đội tăng lên thành đại đội, mở rộng các cơ sở cách mạng ở các khu vực khác như Hòa An, Nguyên Bình (Cao Bằng), Ngân Sơn, Chợ Rã (Bắc Kạn)...

Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chia thành nhiều mũi, có mũi tiến xuống phía Nam đánh chiếm Ngân Sơn, Chợ Rã, Phủ Thông, Chợ Đồn, Na Rì (Bắc Kạn), Chiêm Hóa (Tuyên Quang), có mũi tiến công Thất Khê, Bình Gia (Lạng Sơn), lại có mũi ngược lên biên giới Việt-Trung tiêu diệt nhiều đồn trại từ Trùng Khánh đến Bảo Lạc rồi phát triển sang tỉnh Hà Giang...

Tiến đến địa bàn nào thì vừa đánh thắng quân địch, vừa phát triển thêm lực lượng và tuyên truyền xây dựng niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Ngày 15-5-1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân hợp nhất với Cứu quốc quân và một số đơn vị du kích thành lực lượng quân sự thống nhất, lấy tên mà đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đề xuất từ đầu khi gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh là “Việt Nam Giải phóng quân”.

Thứ hai , đồng chí VÕ NGUYÊN GIÁP là tấm gương mẫu mực gắn kết giữa vai trò Tổng chỉ huy kiêm Tổng chính ủy và thực hiện phương châm “chính trị trọng hơn quân sự”.

Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã hội tụ đầy đủ những phẩm chất, tư cách và thực hiện xuất sắc nhiệm vụ của người chỉ huy, đặc biệt đối với vai trò Tổng chỉ huy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ủy quyền vào cuối năm 1946. Trong buổi trao sắc phong hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bác trao hàm Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ, làm tròn sứ mệnh mà nhân dân phó thác cho”. Tại Hội nghị quân sự lần thứ V-năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra yêu cầu cao về phẩm chất, tư cách, nhiệm vụ của người tướng lĩnh với 6 phẩm chất: Trí-dũng-nhân-tín- liêm-trung. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là tấm gương mẫu mực, thực hiện yêu cầu cao của Bác về những phẩm chất cần có đối với cấp tướng.

Trong hơn 30 năm trên cương vị Tổng chỉ huy của Quân đội ta, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thường xuyên quán triệt và thực hiện xuất sắc quan điểm của Đảng, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với mọi hoạt động của Quân đội là: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”, “người trước, súng sau”, phát triển rộng khắp cả hai lực lượng chính trị, quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân. Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với sự nổi dậy của quần chúng trên các địa bàn, cả miền núi, miền xuôi, thành thị, nông thôn để tiến tới tổng khởi nghĩa, điển hình là cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; Phong trào Đồng khởi ở miền Nam năm 1960; Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, làm nên đại thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trên cương vị Tổng Tư lệnh, “biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh”, nên khi lựa chọn phương án tác chiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn quán triệt, thực hiện đánh chắc thắng, không chắc thắng không đánh, giành thắng lợi cao nhất nhưng tổn thất phải thấp nhất. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, hơn 30 năm trực tiếp chỉ huy Quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra những quyết định quan trọng làm nên chiến thắng của một đội quân khởi đầu với chân đất, áo vải, vũ khí thô sơ trước đối phương hùng mạnh về trang bị, vũ khí hiện đại, được ví là “bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng”. Ông đã thực hiện xuất sắc quyết định của Bác Hồ và Trung ương Đảng, chỉ huy Quân đội từ những trận đánh đầu tiên là Phai Khắt, Nà Ngần, đến nhiều chiến dịch lớn mà điển hình là làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã sử dụng thành công hình thái chiến tranh đặc sắc với tên gọi “Nhân trận-dựa vào dân, phát huy toàn dân đánh giặc, bằng mọi vũ khí, mọi lúc, mọi nơi”, buộc 10 danh tướng của Pháp, Mỹ (trong đó có 7 đại tướng Pháp, 3 đại tướng Mỹ) mắc sai lầm về chiến lược và thua trận. Ông đã chỉ huy Quân đội làm lực lượng nòng cốt để toàn dân đánh thắng hai đế quốc to trong thế kỷ 20, thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng và Bác Hồ đề ra, đó là: Khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chuyển lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên cương vị là Bí thư Quân ủy đầu tiên, Tổng chính ủy của các chính ủy, luôn quán triệt, thực hiện phương châm “chính trị trọng hơn quân sự”. Ông luôn chăm lo xây dựng QĐND Việt Nam thực sự vững mạnh về chính trị, tổ chức, chú trọng hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Quân đội. Xây dựng Quân đội cách mạng, là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, của Nhà nước; là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; giữ vững mối quan hệ đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Đại tướng là Bí thư Quân ủy đầu tiên, thể hiện rõ vai trò chỉ đạo, định hướng cho cơ quan Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, cán bộ chính trị các cấp và trực tiếp thực hiện hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, bảo đảm cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội; xây dựng các tổ chức, trong đó có tổ chức đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện đoàn kết nội bộ; chăm lo giáo dục chính trị, công tác cán bộ, đặc biệt là học tập Bác Hồ về phát hiện, quý trọng và sử dụng nhân tài. Những lời hiệu triệu, kêu gọi, những mệnh lệnh của Đại tướng đưa ra thấm sâu vào tâm tư, tình cảm của mỗi cán bộ, chiến sĩ như hồi trống trận, như tiếng kèn xung phong thôi thúc toàn quân suốt những năm tháng kháng chiến cho đến ngày toàn thắng, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Ngay từ giai đoạn đầu hình thành Quân đội, Đại tướng đã dạy cho các chiến sĩ về những điều cần làm và những điều cần tránh, về mối quan hệ mật thiết giữa quân với dân, để tô thắm hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ. Đại tướng đến với các chiến sĩ, đồng chí, đồng bào bằng tình cảm của một người thân thiết, tập hợp được sức mạnh toàn quân. Ông là một tấm gương mẫu mực của Tổng Tư lệnh kiêm Tổng chính ủy, người Anh Cả của Quân đội nên có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, văn võ song toàn, quán triệt sâu sắc tư tưởng và phương pháp luận Hồ Chí Minh, là người cầm quân tiếp thu và thể hiện đầy đủ tư cách của vị tướng mà Bác Hồ đã dạy.

Thứ ba , Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP là nhà lãnh đạo kiên trung của Đảng, học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, suốt đời cống hiến cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân giao cho nhiều trọng trách... Ở bất kỳ cương vị công tác nào, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dĩ công vi thượng”, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân lên hàng đầu. Ông là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn toát lên sự giản dị của một công dân mang đậm nét văn hóa yêu nước, công dân tiêu biểu qua hai thế kỷ 20 và 21, mãi mãi được vinh danh.

Những năm cuối đời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn đau đáu một tâm nguyện: “Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa là một nhà hoạt động chính trị, vừa là một vị tướng hàng đầu trong lịch sử chiến tranh vệ quốc của dân tộc Việt Nam. Đại tướng là một nhà cách mạng, nhà chính trị tài ba góp phần xứng đáng làm nên những bước ngoặt lịch sử oai hùng của dân tộc, chiến thắng hai đế quốc to trong thế kỷ 20, giành được độc lập, tự do cho Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Thời gian càng lùi xa, những cống hiến đặc biệt xuất sắc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp càng trở nên vĩ đại hơn. Chúng ta mãi mãi khắc sâu công lao to lớn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đối với sự ra đời, trưởng thành và chiến thắng của QĐND Việt Nam, đồng thời cần ra sức học tập lý luận quân sự, tấm gương, đạo đức, phong cách của Đại tướng./.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...