Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền tư pháp Việt Nam phát triển không
ngừng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nền tư pháp Việt Nam được xây dựng và hoàn thiện phản ánh những giá trị văn minh
của nhân loại; uy tín, vị thế của tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ
quan điều tra, cơ quan thi hành án, bổ trợ tư pháp và các chức danh tư pháp
ngày càng được nâng cao, thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất,
Tổ chức và hoạt động của tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, thi hành án,
bổ trợ tư pháp được xây dựng, kiện toàn.
“Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Hiến pháp năm 2013
lần đầu tiên ghi nhận tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Điều
102), “Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp” trong cơ chế “quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp”. Việc Hiến định vị trí pháp lý của tòa án nhân dân,
Viện Kiểm sát nhân dân như trên thể hiện thành công của quá trình cải cách tư
pháp nhằm xây dựng nền tư pháp hiện đại, hiệu quả với giá trị phổ biến của nền
tư pháp là tính độc lập. Trong đó tòa án là một bộ phận quyền lực Nhà nước, giữ
vị trí trung tâm, xét xử là trọng tâm. Viện Kiểm sát nhân dân được thiết lập là
một hệ thống cơ quan độc lập theo chiều dọc, có nhiệm vụ: “bảo vệ pháp luật,
bảo vệ quyền con người, bảo vệ công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất (khoản 3 Điều 107) và
bảo vệ Hiến pháp (Điều 119). Mô hình tổ chức của cơ quan điều tra theo hướng
tinh gọn, hiệu quả hơn ; nhiệm vụ của cơ quan điều tra được xác định rõ trong
mối quan hệ với các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra; kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố
tụng hình sự... Hệ thống cơ quan thi hành án hình sự và thi hành án dân sự được
kiện toàn, bảo đảm sự quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương; quyền
hạn, trách nhiệm, sự phối hợp của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, cấp ủy, chính quyền
địa phương và các cơ quan khác liên quan đến công tác thi hành án được xác định
rõ; số vụ, việc Luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền lợi ngày càng tăng,
chất lượng bào chữa của các Luật sư trong các vụ án ngày càng được nâng cao, số
lượng dịch vụ pháp lý của Luật sư nhìn chung năm sau tăng hơn năm trước.
Thứ 2,
Thủ tục tư pháp không ngừng được hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống
tội phạm, tránh oan sai, bảo đảm công lý, phản ánh chính sách nhân đạo, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
Trong đó,
các nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong thực tế;
nguyên tắc suy đoán vô tội được Hiến định và cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng
hình sự. Chính sách hình sự ngày càng hoàn thiện đề cao hiệu quả phòng ngừa và
tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, giảm hình phạt tù, hạn chế
hình phạt tử hình, giảm khung hình phạt tối đa quá cao, mở rộng áp dụng hình
phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ, khắc phục tình trạng tội phạm hóa
quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự, tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm cho xã
hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển xã hội; hoàn thiện pháp luật dân
sự, tôn trọng quyền tự do kinh doanh, xác lập các quan hệ dân sự, kinh tế,
thương mại; hạn chế sự can thiệp quá mức của cơ quan công quyền vào các quan hệ
này; hình thành cơ chế pháp lý bảo đảm thực thi tốt hơn quyền của các chủ thể
trong giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại thúc đẩy các quan hệ phát triển
lành mạnh. Công tác xây dựng án lệ được tăng cường, “được chánh án tòa án tối
cao nhiều nước đánh giá đạt trình độ quốc tế, mở ra thời kỳ mới về phát triển
án lệ, tăng cường áp dụng án lệ trong xét xử như xu thế chung của thế giới”.
Thứ ba,
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp luôn được cả Hệ thống chính trị quan
tâm.
Hiện nay,
ở Việt Nam đã có lực lượng thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành
viên, Luật sư lớn mạnh. Công tác giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức
nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm cho
đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên được chú trọng thường xuyên, uy
tín của cán bộ tư pháp được nâng lên.
Nền tư
pháp được xây dựng ngày càng công khai, minh bạch, chịu sự giám sát của nhân
dân. Quốc hội đổi mới và tăng cường giám sát hoạt động tư pháp thông qua xét
báo cáo, chất vấn, giám sát chuyên đề và tăng cường hoạt động của Ủy ban Tư
pháp; tòa án nhân dân thực hiện công bố bản án trên Cổng thông tin điện tử (trừ
những bản án hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần
phong mỹ tục); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
đã tích cực tham gia giám sát các hoạt động tư pháp ; các phương tiện thông tin
đại chúng đã chủ động, tích cực hơn trong việc tuyên truyền về hoạt động tư
pháp, kịp thời thông tin góp phần làm sáng tỏ nhiều vụ, việc sai phạm, thiếu
sót trong hoạt động tư pháp.
Chúng ta có thể khẳng định nền tư pháp Việt Nam đã ngày
càng phù hợp với nhu cầu, đòi hỏi của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nền tư pháp Việt Nam đã
chứa đựng và phản ánh đầy đủ giá trị của văn minh nhân loại, công lý, dân chủ
và quyền con người đã gắn với bản chất của nền tư pháp và trở thành giá trị cốt
lõi, làm nên bản sắc của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét