Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2023

NVH40 - NGỜI SÁNG PHẨM CHẤT “BỘ ĐỘI CỤ HỒ” TỪ THỔ NHĨ KỲ

 

Đoàn cứu hộ, cứu nạn của Quân đội nhân dân Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Thổ Nhĩ Kỳ đạt được nhiều kết quả và tạo được niềm tin yêu của người dân nơi đây. Đó là nhờ vào bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm và vinh dự thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng, cao cả của các anh. Bởi chỉ có như vậy, các anh mới dũng cảm đối mặt với rui ro, nguy hiểm giữa hàng trăm ngôi nhà nứt, nghiêng hay chui vào các khe khối bê tông có thể đổ sập bất cứ lúc nào nếu xảy ra các dư chấn hay rung lắc.

“Báo cáo đồng chí đội trưởng, tổ công binh 2 đã hoàn thành nhiệm vụ trong ngày. Kết quả: tìm kiếm và đưa được 2 nạn nhân ra ngoài, toàn đội an toàn, vật chất trang bị khí tài đầy đủ, hết”.

“Đồng chí triển khai toàn đội, đưa trang bị xuống, kiểm tra lại tình trạng kỹ thuật, tối nay sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ. Đồng chí rõ chưa?”

“Rõ”.

Đó là báo cáo của Thiếu tá Trần Thế Thành, Đội phó, Đội công binh ứng phó sập đổ công trình, Quân đội nhân dân Việt Nam sau mỗi ngày làm việc giúp người dân Antakya, Hatay, Thổ Nhĩ Kỳ tìm kiếm người mất tích trong các đống đổ nát và thu dọn đồ đạc trong những ngôi nhà cao tầng nứt, nghiêng luôn rình rập sụp đổ. Nguy hiểm hơn khi vẫn còn hàng nghìn cơn dư chấn sau động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ nói chung và tại Antakya, Hatay - nơi đoàn cứu hộ của ta đang thực hiện nhiệm vụ ở đây nói riêng. Nhưng những chiến sĩ công binh tuổi mới đôi mươi, được đào tạo tinh nhuệ, có bản lĩnh vững vàng đã không ngại hiểm nguy để thực hiện sứ mệnh quốc tế cao cả.

Trung úy Lê Đức Thắng, Đội công binh ứng phó sập đổ công trình, Quân đội nhân dân Việt Nam chia sẻ: “Đây là trách nhiệm quốc tế, với tình hữu nghị của 2 nước Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ, chúng tôi quyết tâm, coi những nạn nhân nằm ở đây là đồng bào, là người thân của mình và sẵn sàng hy sinh để cứu người, cứu tài sản của nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là bản lĩnh và sứ mệnh của Lực lượng Công binh”.

Đúng là những chiến sĩ đầy bản lĩnh khi họ đi giữa những con phố hẹp mà hai bên là các ngôi nhà cao từ 4 đến 5 tầng nghiêng ngả trực chờ đổ sụp xuống lúc nào không hay, rồi chui vào những khe hẹp để cứu người mà phía trên là những tấm bê tông lớn hàng tấn nứt gãy. Mỗi giây, mỗi phút các chiến sĩ của ta thực hiện nhiệm vụ như thế là ngần ấy thời gian các anh phải đối mặt với rủi ro. Nhưng tinh thần đoàn kết của toàn Đoàn và sự động viên, kích lệ mạnh mẽ từ gia đình, vợ, con là động lực để các anh nỗ lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.

Thượng úy Phạm Nhuận, Đội công binh ứng phó sập đổ công trình, Quân đội nhân dân Việt Nam tâm sự: “Tôi rất vinh dự và tự hào khi được thực hiện nhiệm vụ này. Vợ tôi mới sinh cháu, đó là động lực để tôi hoàn thành các nhiệm vụ. Gia đình cứ yên tâm, bên này các anh em đều khỏe mạnh, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ để sớm an toàn về với gia đình”.

Đã nhiều năm tham gia cứu hộ cứu nạn từ lũ quét, sạt lở ở nhiều nơi trên cả nước hay như sự cố Rào Trăng 3 và thậm chí đã chứng kiến nhiều vụ động đất trên thế giới, nhưng với Thượng úy Trần Thế Thành, Đội phó Đội công binh ứng phó sập đổ công trình, Quân đội nhân dân Việt Nam, đây là lần đầu tiên trong đời anh thực hiện nhiệm vụ ở xa Tổ quốc, tận mắt chứng kiến thảm hỏa của động đất mới thấy sự kinh hoàng và tổn thất ghê gớm như thế nào. Nhưng trước những nỗi buồn và hy vọng tìm thấy người còn sống sót trong các đống đổ nát, anh và toàn Đoàn cùng đội công binh đã không quản ngại gian nan.

Thiếu tá Trần Thế Thành, Đội phó Đội công binh ứng phó sập đổ công trình, Quân đội nhân dân Việt Nam nói: “Thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện dư chấn vẫn còn, rủi ro vẫn có, chúng tôi trước tiên xác định an toàn cho bản thân, sau đó tính tới các phương án triển khai lực lượng và phương tiện. Mức độ xảy ra nguy hiểm khi làm nhiệm vụ vẫn rình rập nhưng đồng đội và chỉ huy vẫn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, bên cạnh công tác đảm bảo an toàn”.

Với tinh thần quả cảm đó, Đoàn đã đạt những kết quả tích cực. Chỉ trong 5 ngày qua, Đoàn đã giúp Thổ Nhĩ Kỳ xác định được 12 vị trí có nạn nhân trong các đống đổ nát, trong đó có 2 vị trí có dấu hiệu sự sống. Kết quả đó không chỉ được người dân địa phương trong nước tin tưởng, quý mến mà còn được các lực lượng cứu hộ quốc tế đang làm nhiệm vụ tại đây đánh giá cao. Đó cũng nhờ sự chỉ đạo sáng suốt, quyết liệt và bám sát thực địa cùng anh em chiến sĩ của trưởng đoàn Thiếu tướng Phạm Văn Tỵ, Tổng Chỉ huy các lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam tham tham gia hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Thiếu tướng Phạm Văn Tỵ cho biết: “Quy định quốc tế là phải đảm bảo an toàn cho lực lượng cứu hộ cứu nạn đủ điều kiện. Mặc dù là quán triệt như thế nhưng mà với khát khao, tinh thần trách nhiệm xuất phát từ trái tim của người lính, của dân tộc ta, Bộ đội Công binh và các lực lượng trong đoàn công tác luôn luôn sẵn sàng, kể cả có những lúc hiểm nguy. Tìm kiếm nạn nhân, người thân cho người dân Thổ Nhĩ Kỳ chính là tìm kiếm người thân của mình”.

Chính vì thế ở đâu có lực lượng cứu hộ cứu nạn của ta là ở đó mọi ánh mắt, niềm vui và hy vọng của người dân Antakya hướng đến. Ở đâu cần các anh có. Ở đâu khó có các anh. Mỗi khi cờ đỏ sao vàng được cắm xuống là ở đó các anh đã xác định được có nạn nhân. Đó cũng là lúc mà người dân nơi đây như vỡ òa trong hạnh phúc. Các anh đang làm rạng danh hình ảnh anh Bộ đội Cụ Hồ trên trường quốc tế và tô thắm lá cờ “Mở đường thắng lợi” của Bộ đội Công binh trong giai đoạn mới.

 

NVH40 - ĐẰNG SAU LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC "ĐẢNG LÀM THAY NHÀ NƯỚC"

 

Thành tựu của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta trong thời gian qua đã góp phần củng cố vững chắc niềm tin của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch lại bám vào đó để 'ký sinh' tư tưởng phản động, thực hiện các chiến dịch truyền thông xuyên tạc, cho rằng ở Việt Nam, Đảng đang làm thay chức năng của Nhà nước...

Thấy gì từ những luận điệu xuyên tạc?

Bám sát những diễn biến của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta, các thế lực thù địch cố tình lật ngược bản chất, đánh tráo khái niệm, phủ bóng đen tối lên đời sống chính trị-xã hội của đất nước ta.

“Đổi trắng thay đen” là một trong những thủ đoạn chủ yếu, xuyên suốt của họ trong quá trình chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Họ thực hiện ý đồ chống phá với âm mưu ngày càng thâm độc hơn; thủ đoạn, giải pháp ngày càng toàn diện, quyết liệt hơn; hình thức, lực lượng ngày càng tinh vi, mở rộng hơn.

Tuy nhiên, dù được che đậy dưới nhiều chiêu bài, được ngụy trang dưới nhiều hình thức và được tiến hành với tần suất, thời lượng ngày càng lớn trên không gian mạng thì “con cáo” cũng không thể che giấu được “cái đuôi” phản nghịch, phản động. Càng đẩy mạnh những cái gọi là “phân tích”, “nhận định”, “đánh giá”, “nhận diện”, “dự báo”... về “môi trường chính trị ở Việt Nam”, nhiều đối tượng cực đoan, bất mãn, phản động lưu vong ở nước ngoài càng lộ rõ thái độ hằn học, bản chất xảo trá, ý đồ phản quốc, hại dân...

Sau một thời gian liên tục tung ra những luận điệu xuyên tạc, cho rằng nội bộ Đảng đang có sự “phân hóa sâu sắc”, cuộc “đấu đá”, “tranh giành” quyền lực giữa các “phe cánh” đang diễn biến “khốc liệt”; thời gian gần đây, họ thực hiện chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc về cơ chế lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Họ rêu rao xuyên tạc, chỉ trích Đảng Cộng sản Việt Nam đang “lấn át”, “làm thay” vai trò, chức năng của Nhà nước. Theo dõi những diễn biến của thủ đoạn chống phá đất nước do các đối tượng có tư tưởng thù địch thực hiện trên không gian mạng thời gian gần đây, chúng ta thấy, họ bám vào những sự kiện thời sự trong đời sống chính trị-xã hội của đất nước để “ký sinh” tư tưởng thù địch.

Sau khi Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội thực hiện các thủ tục miễn nhiệm đối với một số đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước theo quy định của pháp luật và Điều lệ Đảng, làn sóng tuyên truyền xuyên tạc lại rộ lên.

Truyền thông có tư tưởng thù địch đã tung lên không gian mạng nhiều sản phẩm dưới các hình thức như bài viết, video, phỏng vấn trực tuyến, tọa đàm... với các nội dung xuyên tạc, cho rằng: Môi trường chính trị ở Việt Nam đang có biến động lớn bởi sự “độc tài”, “độc đoán” của chế độ “Đảng trị”... Sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chúc Tết toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và kiều bào trên thế giới trong đêm Giao thừa Tết Quý Mão 2023, nhiều đối tượng có tư tưởng thù địch nhân cơ hội này đã đẩy chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, chống phá lên mức độ, tần suất cao hơn. Họ cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đang “lấn át”, “lấn quyền”, “làm thay”, “vô hiệu hóa” vai trò, chức năng của Nhà nước...

Cách để họ gây hoang mang, dao động trong tâm lý xã hội là kiểu lập ngôn “hóng hớt”, “cắt ngọn” thông tin, lấy hiện tượng để suy diễn, xuyên tạc bản chất. Họ cố tình bẻ cong luận điểm, ngụy tạo luận cứ, luận chứng nhằm lèo lái công chúng hiểu sai lệch bản chất vấn đề. Họ cổ xúy hận thù, kích động gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ, phá hoại công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vốn đang đi đúng hướng và rất được lòng dân của Đảng, Nhà nước ta.

Trước những sản phẩm truyền thông xấu độc nêu trên, đại đa số cán bộ, đảng viên, công dân có nhận thức đúng đắn, lập trường chính trị tư tưởng vững vàng đều hiểu rõ đây là âm mưu, thủ đoạn chống phá đất nước của các đối tượng cơ hội, thù địch.

Chúng ta đều biết, lời chúc Tết của lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong đêm Giao thừa Tết Nguyên đán hằng năm là một nghi thức văn hóa truyền thống của dân tộc. Hiến pháp, pháp luật không quy định vấn đề này. Chính vì vậy, việc Tổng Bí thư hay Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước chúc Tết nhân dịp đón Tết cổ truyền của dân tộc là căn cứ vào tình hình thực tế và phân công trong lãnh đạo chủ chốt của Đảng.

Bám vào một hoạt động thể hiện truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để suy diễn, xuyên tạc, chỉ trích “Đảng làm thay chức năng của Nhà nước” là kiểu lập luận quy chụp, võ đoán, vô căn cứ với ý đồ xấu. Cùng với đó, việc Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội thực hiện các thủ tục miễn nhiệm đối với một số đồng chí lãnh đạo cấp cao, đã được thực hiện theo đúng trình tự pháp luật và Điều lệ Đảng trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng cá nhân. Bám vào những sự kiện này để xuyên tạc, cho rằng Đảng “độc tài”, “độc đoán”, “chuyên quyền”, “lấn át”, “làm thay”... Nhà nước là kiểu lập ngôn “đổi trắng thay đen” nhằm lật ngược bản chất vấn đề.

Cán bộ, đảng viên và mỗi công dân cần thống nhất cao về nhận thức để thấy rõ âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Đằng sau những luận điệu xuyên tạc “Đảng làm thay chức năng của Nhà nước” là chiến dịch hạ bệ cá nhân lãnh đạo, bóp méo, bôi đen vai trò lãnh đạo, bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Mục đích của họ là phá hoại cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, gây rối ren đời sống xã hội, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng...

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”

Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ Đảng lãnh đạo đất nước đổi mới đã chứng minh, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là phương thức vận hành tổng thể của hệ thống chính trị ở nước ta. Cơ chế này là sự vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân dân trong lịch sử, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới.

Cơ chế này được Đảng ta đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (năm 1982) và xác định rõ tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) của Đảng. Thực tiễn vận hành cơ chế cho thấy, có những giai đoạn, thời điểm lịch sử và tổ chức trong hệ thống chính trị, việc nhận thức, thực hiện cơ chế vẫn còn những hạn chế nhất định. Và đây chính là một trong những kẽ hở mà các thế lực thù địch lợi dụng khoét sâu, chống phá.

Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII (Nghị quyết số 27-NQ/TW) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, đã chỉ rõ: Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới.

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được luận giải đầy đủ, thuyết phục; tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Quyền lực Nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên và nhân dân chưa nghiêm...

Nhận thức đầy đủ những bất cập, hạn chế trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật để đổi mới, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII xác định: Tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa, hoàn thiện, thực hiện tốt cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" và phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".

Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của nhân dân. Hoàn thiện cơ chế để phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị... tăng cường và bảo đảm Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình...

Đảng ta nêu rõ quan điểm: Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ... Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân... Tiến hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình, bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện...

Chúng ta thấy rõ, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII đã thể hiện tư duy mới, quan điểm mới của Đảng cả về lý luận và thực tiễn trên cơ sở kế thừa thành tựu, khắc phục hạn chế để tiếp tục hoàn thiện, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Những giải pháp, việc làm kịp thời, nhân văn, kiên trì, kiên quyết, không có vùng cấm, bất kể người đó là ai... trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý cán bộ vi phạm của Đảng, Nhà nước ta trong thời gian gần đây là sự minh chứng rõ ràng đối với hiệu lực, hiệu quả “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Công tác đấu tranh được thực hiện trên tinh thần thượng tôn pháp luật, chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, cụ thể hóa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn.

Những kẻ tung tin xuyên tạc cho rằng “Đảng làm thay Nhà nước” đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn, chủ ý “cắt ngọn” thông tin để lèo lái dư luận theo ý đồ xấu. Cán bộ, đảng viên và công chúng yêu nước cần thống nhất cao về nhận thức, tỉnh táo nhận diện, đấu tranh, vạch rõ âm mưu đen tối của các đối tượng thù địch. Đó cũng là cách để chúng ta góp phần thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, tiếp tục duy trì, phát huy thành quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trên tinh thần: “Tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.

NVH40 - TRỊ TẬN GỐC THAM NHŨNG

 

Từ thực tiễn sinh động và quá trình nghiên cứu công phu, từng bước đúc rút một số vấn đề có tính lý luận, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều bài viết, phát biểu, kết luận (gọi chung là bài viết) quan trọng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Ðể góp phần tuyên truyền sâu rộng tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư, Ban Nội chính Trung ương lựa chọn một số bài viết nói trên, phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực góp phần xây dựng Ðảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Cuốn sách ra mắt bạn đọc hôm nay sẽ truyền thêm niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân quyết tâm trị tận gốc tham nhũng.

Với hơn 620 trang, cuốn sách có ba phần. Phần thứ nhất: Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam; gồm bài tổng quan Ðấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: Một việc làm cần thiết, tất yếu; một xu thế không thể đảo ngược!; bốn bài phát biểu kết luận tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực các năm 2014, 2018, 2020, 2022; nội dung phát biểu kết luận tại các phiên họp Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cuộc họp thường trực Ban Chỉ đạo do đồng chí làm Trưởng ban.

Với tiêu đề Nhất quán phương châm: phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm, từ xa, cả ngọn lẫn gốc, phần thứ hai gồm 14 bài viết, bài phát biểu tiêu biểu về xây dựng, chỉnh đốn Ðảng từ những năm đầu đổi mới (1986) đến nay và tám bài về rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, trong đó có những bài được viết từ thập kỷ 70 của thế kỷ trước. Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt là phần thứ ba, tập hợp 96 ý kiến của các tầng lớp nhân dân, đại biểu Quốc hội và các chính khách, học giả nước ngoài ủng hộ và thể hiện niềm tin sâu sắc vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Suy thoái đạo đức, lối sống - cái gốc của tham nhũng

Trong cuốn sách, tư tưởng của bài tổng quan như sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ các bài viết, bài phát biểu, kết luận của Tổng Bí thư và tập trung trả lời một số câu hỏi lớn như: Tham nhũng, tiêu cực là gì? Tác hại ra sao? Nhận thức của Ðảng và Nhà nước ta về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực? Những kết quả đạt được và bài học rút ra từ thực tiễn? Ðặc biệt là phải làm gì và làm như thế nào để tiếp tục ngăn chặn, đẩy lùi nạn tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới?

Với những bài viết phân tích sâu sắc, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, cuốn sách như một bức tranh toàn cảnh về thực trạng, đặc biệt là quyết tâm, cách làm và hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Ðảng những nhiệm kỳ gần đây. Qua đó, người đọc sẽ hiểu tham nhũng là gì mà được ví như “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực; là thứ giặc nội xâm rất nguy hiểm, nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Ðảng và chế độ. Ðọc kỹ từng bài viết sẽ thấy rõ quan điểm của Tổng Bí thư về tham nhũng, tiêu cực ngày càng sâu sắc và có nhiều điểm mới, như mối quan hệ giữa tham nhũng và tiêu cực, nhất là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Nguyên nhân cơ bản, trực tiếp, sâu xa của tham nhũng là do chủ nghĩa cá nhân, do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong đó có một bộ phận cán bộ cấp cao; tiêu cực là môi trường làm nảy sinh tham nhũng; tham nhũng tác động trở lại làm trầm trọng hơn tình trạng tiêu cực. Nếu chỉ phòng, chống tham nhũng về tiền bạc, tài sản thì chưa đủ, mà nguy hại hơn là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Ðây mới là cái gốc của tham nhũng. Vì vậy, phòng, chống tiêu cực, mà trọng tâm là phòng, chống sự suy thoái trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, tức là trị tận gốc của tham nhũng.

Ðó là nhiệm vụ rất quan trọng và vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành một cách kiên quyết, kiên trì, liên tục, bền bỉ, không nghỉ, không ngừng ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự; với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm.

Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm, từ xa

Các bài viết của Tổng Bí thư giúp người đọc nhận diện đúng về tham nhũng, tiêu cực hiện nay, không chỉ xảy ra trong khu vực nhà nước mà còn cả khu vực ngoài nhà nước và ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. Ðể phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiệu quả phải huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc dưới sự lãnh đạo của Ðảng với phương châm xuyên suốt là kiên quyết, kiên trì, liên tục, bền bỉ, không nghỉ, không ngừng; chủ động tích cực phòng ngừa, trong đó phòng là chính, là cơ bản, lâu dài, chống là quan trọng, cấp bách. Việc thi hành kỷ luật đảng phải tiến hành đồng bộ với kỷ luật hành chính và xử lý hình sự, rất nghiêm minh nhưng cũng rất nhân văn; đồng thời tăng cường công khai, minh bạch, giám sát kiểm soát quyền lực, nhất là trong các cơ quan nhà nước.

Thực tế cho thấy làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thực chất là tiền đề quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Chính vì thế, việc lựa chọn một số bài viết tiêu biểu về xây dựng, chỉnh đốn Ðảng từ những năm đầu đổi mới đến nay để đưa vào cuốn sách đã giúp người đọc hiểu rõ hơn tư tưởng nhất quán và tầm nhìn của tác giả đối với nhiệm vụ then chốt này.

Chính hiện thực đất nước hơn 35 năm đổi mới, nhất là những đòi hỏi từ cuộc sống hiện nay, chính quá trình trải qua nhiều cương vị công tác quan trọng, trở thành người lãnh đạo cao nhất của Ðảng bộ thành phố Hà Nội, của Quốc hội và của Ðảng từ Ðại hội XI đến nay, với tư duy sắc bén, nhãn quan chính trị vượt trội của một nhà nghiên cứu lý luận chính trị luôn hết lòng vì dân, vì nước đã thôi thúc tác giả có những bài viết sâu sắc, tâm huyết. Trước hết, đó là sự kiên định một vấn đề có tính nguyên tắc: Sự lãnh đạo của Ðảng là nhân tố quyết định tạo ra những thành công của công cuộc đổi mới.

Ðảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn; phải kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong nội bộ, có những việc phải làm rất kiên quyết, kiên trì, bền bỉ, thường xuyên, liên tục; có khi giải quyết xong vấn đề này lại nảy sinh vấn đề khác. Song điều có ý nghĩa quyết định là, từ trên xuống dưới, đều phải có quyết tâm rất lớn, có sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại,...

Không phải đến khi ở cương vị người lãnh đạo cao nhất của Ðảng mà từ thời công tác tại Tạp chí Cộng sản, tác giả đã luôn trăn trở, phê phán, đấu tranh quyết liệt với các biểu hiện tiêu cực trong cán bộ, đảng viên. Ðó là những căn bệnh sợ trách nhiệm; lợi dụng quyền hạn để xoay xở, bòn rút của công,... Tám bài viết ở thập niên 70 của thế kỷ trước đến các bài gần đây in trong cuốn sách này đã thể hiện tư tưởng xuyên suốt, nhất quán trong các giai đoạn cách mạng và càng làm càng rút ra được nhiều kinh nghiệm hay để làm tốt hơn của Tổng Bí thư đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, qua đó càng thể hiện rõ nhân cách, phong cách của một người lãnh đạo có tâm, có tầm được toàn Ðảng, toàn dân hoan nghênh ủng hộ, được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Với gần 100 hình ảnh, minh họa gắn với các sự kiện, hoạt động của Tổng Bí thư và các thành viên Ban Chỉ đạo, được trình bày theo phong cách báo chí, hiện đại, cuốn sách thêm sinh động, hấp dẫn.

Cách làm, kết quả đáng khích lệ trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua là chất liệu phong phú, quý giá để Tổng Bí thư có những bài viết sinh động, sâu sắc và thuyết phục. Ngược lại, chính những bài viết ấy sẽ định hướng, thúc đẩy chúng ta đánh bại thứ giặc nội xâm nguy hiểm này. Ðó là một phần ý nghĩa và giá trị thiết thực của cuốn sách.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NVH40 - ĐOÀN KẾT YÊU THƯƠNG ĐỒNG CHÍ, ĐỒNG ĐỘI LÀ LỜI THỀ THIÊNG LIÊNG CỦA “BỘ ĐỘI CỤ HỒ”

 

Đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau trên tình đồng chí, đồng đội trở thành một phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, là lời thề thiêng liêng của mọi quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Lúc sinh thời, Bác Hồ kính yêu đã căn dặn: “… phải đoàn kết hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ giữa chiến sĩ với nhau, giữa cán bộ với nhau, giữa chiến sĩ với cán bộ, giữa quân và dân. Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”. Tình đoàn kết trong nội bộ Quân đội được xây dựng trên tình thương yêu giai cấp, tình đồng chí, đồng đội gắn bó thủy chung, cùng chung lý tưởng và mục đích chiến đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho hạnh phúc của nhân dân.

Tình đoàn kết, yêu thương đồng chí, đồng đội trong Quân đội đã tạo nên vẻ đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Cội nguồn làm nên phẩm chất cao quý đó bởi trong Quân đội ta mọi cán bộ, chiến sĩ đều có chung mục tiêu, lý tưởng: “Sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân”, mọi người đều bình đẳng về chính trị, về quyền lợi và trách nhiệm. Đảng ta không khi nào ngừng nghỉ việc chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng, tôi luyện tinh thần đoàn kết nội bộ, đoàn kết cán binh trong Quân đội, làm cho những phẩm chất đó thấm vào máu thịt của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, trở thành một truyền thống tốt đẹp, một giá trị tinh thần to lớn, là cơ sở, nguồn gốc xây dựng tập thể quân nhân vững mạnh toàn diện, góp phần tạo nên sức mạnh của Quân đội anh hùng.

Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, tuy ở đâu đó vẫn có các biểu hiện thực dụng, cơ hội, làm phai nhạt nghĩa tình đồng chí, đồng đội; nhưng nét chủ đạo trong phẩm chất đoàn kết, yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” vẫn không ngừng tỏa sáng. Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy hết lòng yêu thương, chia ngọt sẻ bùi với chiến sĩ, với cấp dưới, luôn quan tâm chăm lo cả đời sống vật chất và tinh thần của mọi quân nhân. Chiến sĩ tin cậy và bảo vệ cán bộ; cấp dưới tôn trọng, phục tùng, chấp hành nghiêm mệnh lệnh cấp trên.

Tình đoàn kết, yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” những năm qua được biểu hiện sinh động với phong trào “nghĩa tình đồng đội”, “mái ấm tình thương”… Những việc làm thiết thực như: Làm nhà đồng đội, xây dựng quỹ đồng đội vượt khó, thực hiện chính sách hậu phương quân đội, giúp nhân dân phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, xóa đói giảm nghèo; nhiều đồng chí không quản gian khổ, hy sinh đi tìm và đưa hài cốt liệt sĩ về với quê hương… Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tình đoàn kết, yêu thương đồng chí, đồng đội của “Bộ đội Cụ Hồ” vẫn đang có sức lan tỏa mạnh mẽ trong Quân đội cũng như ngoài xã hội, góp phần thực hiện tốt Cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới

 

NVG40 - VĂN HÓA QUÂN SỰ GỢI MỞ TỪ BẢN ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA

 

Ra đời vào hoàn cảnh văn hóa Việt Nam ở trong tình hình nhiễu loạn và phức tạp của nhiều trường phái và triết thuyết khác nhau, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã trở thành một vũ khí tư tưởng sắc bén trên mặt trận văn hóa, định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa cho toàn Đảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc, tiến lên xây dựng chế độ mới, nền văn hóa mới.

Không chỉ có giá trị to lớn trong chỉ đạo hoạt động văn hóa xã hội nói chung, sự ra đời của Đề cương văn hóa còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc xây dựng văn hóa quân sự Việt Nam nói riêng.

“Bắt mạch” đúng những “căn bệnh” của văn hóa Việt Nam dưới chế độ thực dân thuộc địa, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 kêu gọi xây dựng nền văn hóa mới, phát triển nền văn hóa dân tộc. Chỉ dài hơn 1000 chữ, Đề cương gồm 5 phần ngắn gọn, là cụ thể hóa quan điểm văn hóa của Đảng; sự gắn bó vai trò văn hóa với ý nghĩa cuộc cách mạng giải phóng; đặt ra mục đích, nguyên tắc, quan hệ của cuộc cách mạng văn hóa với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam; đề ra nhiệm vụ cấp bách của người chiến sĩ văn hóa mác xít như là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đặt trong bối cảnh lịch sử ra đời của Đề cương, việc Đảng ta cho công bố Đề cương về văn hóa Việt Nam đã góp phần vạch rõ âm mưu, thủ đoạn nô dịch văn hóa của thực dân Pháp, phát xít Nhật, vạch rõ bản chất phản động, hèn nhát của lũ tay sai hòng "bán nước, cầu vinh". Từ đó, Đề cương đã góp phần để những ai còn mơ hồ, ảo tưởng nhận thức đúng bản chất vấn đề. Tác dụng thức tỉnh và thu hút của Đề cương văn hóa là ở toàn bộ nội dung của nó, nhưng nổi bật nhất là ba nguyên tắc: Dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa.

Khẳng định phải dân tộc hóa vì văn hóa Việt Nam khi đó dưới ách áp bức của phát xít, thực dân đã và đang bị nô dịch và chia rẽ nặng nề. Đó là một nền văn hóa thiếu hẳn tinh thần độc lập, tự do và thống nhất dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam được dân tộc hóa nhằm chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập.

Đại chúng hóa là một nguyên tắc của vận động văn hóa vì quần chúng là cội nguồn của sức mạnh, là chủ thể đích thực của mọi giá trị văn hóa. Nhưng trên thực tế lúc đó, văn hóa lại đang trở thành, hoặc là thứ xa xỉ mà quần chúng không thể với tới, hoặc là những sản phẩm độc hại, phản giá trị mà quần chúng không thể thụ hưởng. Nền văn hóa mới, văn hóa cách mạng mà Đề cương văn hóa định hướng xây dựng hướng mọi sáng tạo nghệ thuật và hoạt động văn hóa vào phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, cán bộ, chiến sĩ cách mạng, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần quần chúng nhân dân, tạo sự phấn khởi, hăng hái trong thực hành các nhiệm vụ cách mạng.

Khoa học hóa là tạo điều kiện cho nền văn hóa dân chủ mới nhanh chóng thoát khỏi sự kìm hãm của “xu hướng văn hoá bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm...”. Đặt nguyên tắc khoa học hóa lên vị trí ưu tiên vì một nền văn hóa muốn thực sự mang tính cách mạng, trước hết nó phải có một nền tảng khoa học chắc chắn làm tiền đề. Trong khi đó, ở một nước nông nghiệp lạc hậu thì chủ nghĩa kinh nghiệm thường lấn át tri thức khoa học và khoa học trong một nước bị đô hộ thì khó mà được ưu tiên phát triển.

Có thể nói, ba nguyên tắc nêu trên là cơ bản nhất, không thể tách rời nhau, phản ánh đúng nhất thực trạng và nhu cầu bức thiết của cuộc vận động văn hóa Việt Nam lúc bấy giờ. Những luận điểm cơ bản đó phù hợp với quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là kết quả vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng của Mác - Lênin, Hồ Chí Minh để định hướng cho cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóa khi cách mạng giải phóng dân tộc đang trong thời kỳ quyết liệt.

Từ quan điểm Đảng ta đưa ra trong Đề cương văn hóa năm 1943, đặc biệt là ba nguyên tắc dân tộc - khoa học - đại chúng trong vận động văn hóa, vận dụng vào việc phát huy các giá trị văn hóa quân sự Việt Nam - với tư cách là một bộ phận của nền văn hóa dân tộc, để khơi dậy sức mạnh nội lực của cán bộ, chiến sĩ hướng vào hoàn thành các mục tiêu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, cần chú trọng những vấn đề có tính nguyên tắc sau đây:

Nguyên tắc tính Đảng: Như Đề cương văn hóa 1943 đòi hỏi hoạt động văn hóa của nhân dân, của mỗi tổ chức và cá nhân cần quán triệt sâu sắc tính Đảng Cộng sản, vấn đề xây dựng văn hóa quân sự Việt Nam luôn đòi hỏi mỗi tổ chức và cá nhân, mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn quán triệt sâu sắc nguyên tắc tính Đảng trong hoạt động văn hóa của mình. “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng” đối với quân đội. Đó là điều kiện bảo đảm vững chắc sự gắn bó hữu cơ giữa định hướng chính trị và hoạt động văn hóa quân sự.

Nguyên tắc tính dân tộc: Dù xây dựng và phát triển văn hóa đến mức độ hiện đại như thế nào thì văn hóa Việt Nam luôn phải gắn với bản sắc dân tộc. Đề cao bản sắc văn hóa dân tộc chính là vũ khí để bảo vệ sự độc lập của nền văn hóa đất nước trước xu thế toàn cầu hóa văn hóa, thức tỉnh tinh thần và ý chí dân tộc. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng và thống nhất đất nước, trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Những đặc trưng văn hóa bền vững trong lịch sử của dân tộc sẽ là nền tảng để xây dựng văn hóa quân sự trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời, cần bổ sung những giá trị văn hóa mới vào hệ giá trị văn hóa quân sự Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, nhất là trên cơ sở những chuẩn mực đã được xác lập, cần bổ sung những chuẩn mực mới của Bộ đội Cụ Hồ cho phù hợp; xứng đáng là đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, “trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân”, có kỷ luật tự giác, nghiêm minh, có tình đồng chí, đồng đội và tinh thần nhân văn, gắn bó mật thiết với nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng thiêng liêng, cao quý nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng nhân văn của Đảng trong nguyên tắc “đại chúng hóa” văn hóa. Quần chúng nhân dân vừa là người sáng tạo, vừa là đối tượng phản ánh, vừa là người được hưởng thụ mọi giá trị văn hóa. Ý nghĩa của nguyên tắc này không chỉ gói gọn trong xây dựng văn hóa mà xa hơn, rộng hơn chính là để khai thác và phát huy sức mạnh của nhân dân vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Nét đặc sắc trong văn hóa quân sự Việt Nam là phát động được đông đảo quần chúng nhân dân cùng tham gia các hoạt động quân sự, kết hợp được sức mạnh đông đảo của nhân dân với sức mạnh của các đơn vị quân đội chính quy, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Tính khoa học hướng dẫn các hoạt động văn hóa mới Việt Nam biết kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, có giá trị thúc đẩy tính tích cực của các chiến sĩ cách mạng luôn vì nước quên thân, vì dân phục vụ. Đồng thời phải chủ động đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực làm xói mòn những giá trị đích thực của văn hóa quân sự Việt Nam.

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NVE40-TINH THẦN VIỆT NAM, NGHĨA CỬ CAO ĐẸP

 

Những ngày qua, thông tin về việc Việt Nam cử lực lượng tham gia thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn trong vụ động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận. Cụ thể, Việt Nam đã cử 24 cán bộ, chiến sĩ của Bộ Công an và 76 cán bộ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp của Bộ Quốc phòng đến Thổ Nhĩ Kỳ để thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn. Đây không phải là lần đầu chúng ta cử lực lượng tham gia thực hiện các nhiệm vụ quốc tế, song lại là lần đầu tiên Việt Nam triển khai lực lượng tham gia hoạt động tìm kiếm, cứu nạn đối với thảm họa thiên tai xảy ra tại một quốc gia ở xa lãnh thổ Việt Nam, phối hợp cùng nhiều quốc gia khác trên thế giới trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Việt Nam triển khai lực lượng tham gia hoạt động tìm kiếm, cứu nạn đối với thảm họa thiên tai xảy ra tại Thổ Nhĩ Kỳ được dư luận đánh giá cao. Hoạt động này là minh chứng sinh động cho chính sách đối ngoại ưu việt, trách nhiệm cao trước cộng đồng quốc tế của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam; thể hiện truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam. Đồng thời khẳng định uy tín, tinh thần trách nhiệm, năng lực của lực lượng Công an và Quân đội nước ta trong hội nhập, hợp tác quốc tế, thì đáng tiếc, vẫn có những luận điệu sai trái, cố tình bóp méo nghĩa cử cao đẹp của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Một số cá nhân cho rằng, việc Việt Nam hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ chỉ là “làm cho có phong trào”; là “đánh bóng hình ảnh” Việt Nam… Một số ý kiến còn đặt vấn đề, “vì sao Việt Nam còn nghèo, mà lại hỗ trợ người dân nước khác, sao không giúp người dân khó khăn trong nước?”…


Việt Nam cử lực lượng tham gia tìm kiếm cứu nạn, hỗ trợ tài chính để khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ, Syria là hết sức kịp thời và hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như truyền thống tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam. Trước những hậu quả nặng nề do trận động đất ngày 6/2 gây ra, Liên hợp quốc kêu gọi cộng đồng quốc tế hỗ trợ ứng cứu, khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế đã cử lực lượng, phương tiện, vật chất đến các quốc gia trên để ứng cứu, hỗ trợ khắc phục hậu quả động đất. Đến nay đã có hơn 90 quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế cử lực lượng cứu hộ, cứu nạn cũng như viện trợ, cam kết viện trợ cho Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Do vậy, việc làm của Việt Nam không chỉ là sự hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc, mà còn rất phù hợp với xu thế quan hệ quốc tế hiện nay; là sự kế thừa truyền thống nhân văn, nhân đạo sâu sắc của dân tộc Việt Nam.

Việt Nam tham gia tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ thảm họa tại Thổ Nhĩ Kỳ còn là biểu hiện sinh động cho chính sách đối ngoại ưu việt, thái độ cộng đồng trách nhiệm và tinh thần đoàn kết quốc tế của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam; đồng thời, khẳng định uy tín, năng lực của lực lượng Công an và Quân đội nước ta trong hội nhập, quan hệ, hợp tác quốc tế. Thực tế ngay trong những ngày đầu thực hiện nhiệm vụ tại Thổ Nhĩ Kỳ, các lực lượng tìm kiếm, cứu nạn của Việt Nam đã được nước bạn cũng như các đoàn quốc tế tham gia công tác cứu nạn cứu hộ đánh giá rất cao sự nhiệt tình và tính chuyên nghiệp. Các lực lượng tìm kiếm, cứu nạn của chúng ta đã sử dụng thuần thục những thiết bị chuyên dụng, hiện đại để thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn; đặc biệt là sự chuyên nghiệp trong sử dụng các thiết bị banh, cắt thủy lực, tìm kiếm bằng camera hình ảnh và âm thanh, sử dụng các thiết bị liên quan đến kích, nâng và tách những khối bê tông để phục vụ cho việc cứu nạn cứu hộ. Nhờ vậy, đã mang lại hiệu quả tích cực.

Việc tham gia tìm kiếm, cứu nạn và hỗ trợ khắc phục hậu quả thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ đã thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế, những nghĩa cử cao đẹp đó đã tạo ấn tượng tốt đẹp với bạn bè quốc tế và chính quyền, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ; đồng thời, lan tỏa mạnh mẽ tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên một số phần tử cơ hội, sử dụng những luận điệu xuyên tạc cho rằng, việc Việt Nam hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ chỉ là “làm cho có phong trào”; là “đánh bóng hình ảnh” Việt Nam… chỉ là những luận điệu sai trái, những ý kiến phiến diện, một chiều xuất phát từ động cơ chính trị thiếu trong sáng. Các cá nhân đưa ra những ý kiến này đã đi ngược lại những giá trị lợi ích quốc gia, dân tộc; cố tình không nhận thấy ý nghĩa nhân văn, nhân đạo trong việc Việt Nam tham gia tìm kiếm, cứu nạn và hỗ trợ khắc phục hậu quả thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ; cố tình bóp méo nghĩa cử cao đẹp của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta./.

 

 

NVE40-VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ

 

            Là thành viên của Liên hợp quốc (năm 1977), Việt Nam luôn ủng hộ các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đặc biệt là các nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, không đe đọa hoặc sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình, đóng góp tích cực trong giải quyết xung đột, khủng hoảng trên thế giới Việt Nam có thể tự hào khẳng định là thành viên có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế, đủ năng lực và luôn chủ động sẵn sàng chung tay giải quyết các vấn đề nhân đạo, an ninh, bảo vệ hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.

            Việc Việt Nam cử các đội cứu nạn, cứu hộ quốc tế của công an, quân đội tới hiện trường vụ động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ để tham gia khắc phục hậu quả đã một lần nữa khẳng định Việt Nam là thành viên rất có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế và có đủ năng lực để tham gia thực hiện các nhiệm vụ quốc tế. Đây không phải lần đầu tiên Việt Nam chủ động tham gia các hoạt động nhân đạo hay nghĩa vụ quốc tế. Trong lịch sử, chúng ta đã từng cử lực lượng tình nguyện sang giúp cách mạng Lào trong giai đoạn đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập hay giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot.

Những nỗ lực đóng góp của Việt Nam bắt nguồn từ truyền thống thương người như thể thương thân của dân tộc Việt, từ sự thấu cảm, chia sẻ với những đau thương, mất mát vẫn còn hiện hữu trên thế giới bởi Việt Nam đã từng nhiều năm trải qua chiến tranh. Hơn ai hết, nhân dân Việt Nam luôn có khát vọng được sống trong hòa bình, luôn trân trọng và khắc ghi tình cảm và sự sẻ chia quý báu mà nhân dân thế giới dành cho Việt Nam lúc khó khăn.

            Vì lẽ đó, khi khả năng và điều kiện của đất nước cho phép, Việt Nam sẵn sàng sànafchia sẻ khó khăn với bạn bè quốc tế, đóng góp cho việc thúc đẩy hòa bình, ổn định và thịnh vượng của nhân loại. Và chúng ta có thể khẳng định. Thế và lực của đất nước ta không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay; hay nhấn mạnh của Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres: “Việt Nam và nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể tự hào vì tiếng nói của các bạn được tất cả các quốc gia tôn trọng”./.

 

NVE40-VIỆT NAM KIÊN TRÌ CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG HÒA BÌNH, HỢP TÁC VÀ TỰ VỆ

 

“Quốc phòng Việt Nam là nền quốc phòng toàn dân, mang tính chất hòa bình, tự vệ; tích cực, chủ động, kiên quyết, kiên trì ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Mục tiêu xuyên suốt của quốc phòng Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước. Cam kết thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ quốc tế cao cả, mong muốn đóng góp cho hòa bình, thịnh vượng, hợp tác phát triển chung của khu vực và thế giới”. Chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay là sự nhất quán về đường lối, chủ trương và luật pháp về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc của Đảng và Nhà nước Việt Nam; là tư tưởng quốc phòng đúng đắn, được lựa chọn và xác lập phù hợp với tình hình thực tiễn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; là sự kế thừa truyền thống, tinh hoa văn hóa dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, được nâng lên và cấu thành nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Để chuẩn bị cho đất nước bước vào thời kỳ phát triển nhanh và bền vững, thực hiện các mục tiêu chiến lược đến năm 2045, đưa Việt Nam trở thành một nước thịnh vượng, hùng cường và có nhiều đóng góp quan trọng vào giữ vững, xây đắp nền hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và thế giới, Đảng và Nhà nước ta ban hành chính sách quốc phòng Việt Nam, với một số quan điểm cơ bản: 

“Bốn không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.


“Một đồng”: Đồng thời tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung.

“Một tùy”: Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp.

Như vậy, “mẫu số chung” của chính sách quốc phòng Việt Nam là: “Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”. Điều này thể hiện một chính sách quốc phòng độc lập, tự vệ, tiến bộ và đúng đắn của Việt Nam, vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, vừa tôn trọng và hài hòa với lợi ích của các quốc gia khác và cộng đồng quốc tế. 

“Không tham gia liên minh quân sự” là chính sách đầu tiên, chi phối và quyết định toàn bộ các chính sách quốc phòng khác của Việt Nam. Thực hiện chính sách quốc phòng nhất quán độc lập, tự chủ, Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng bằng nguồn lực mọi mặt của đất nước và con người Việt Nam; độc lập song không biệt lập, mà đồng thời (“một đồng”) chú trọng tăng cường quan hệ quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, cùng có lợi, vì hòa bình và sự tiến bộ của thế giới.

Bởi vậy, những luận điệu cổ xúy Việt Nam “chọn phe”, “liên thủ” hoặc “liên minh” quân sự với nước khác để “gia tăng sức mạnh bảo toàn chủ quyền lãnh thổ”, cũng như đi ngược lại nguyên tắc “bốn không”, bản chất là âm mưu hòng làm suy yếu nền quốc phòng của Việt Nam, phá vỡ nguyên tắc nền quốc phòng tự chủ của một quốc gia độc lập, dẫn đến sự lệ thuộc vào các lực lượng quân sự khác, gây nên những hệ lụy to lớn ảnh hưởng tới sức mạnh, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Cùng với “bốn không”, “một đồng”, chính sách “một tùy” thể hiện sự khéo léo, linh hoạt, nhưng hết sức cứng rắn trong quan hệ quốc tế, quốc phòng, quân sự của Việt Nam. Trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, Việt Nam sẽ “cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp”, nhằm tăng thêm thực lực, sức mạnh quốc phòng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, hành động xâm hại đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

Việt Nam luôn tôn trọng với các tổ chức quốc tế. Đánh giá cao vai trò của Liên hợp quốc trong các hoạt động gìn giữ hòa bình, ngăn ngừa xung đột, chiến tranh. Hướng đến các ý nghĩa đối với hòa bình cho các dân tộc. Thực thi những chuẩn mực cốt lõi của quan hệ quốc tế trong Hiến chương Liên hợp quốc. Với các tuân thủ cũng như thể hiện trong chiến lược quốc phòng của quốc gia. Tìm kiếm các giá trị cốt lõi với đàm phán và thương lượng, những thành tựu, cùng thực lực sức mạnh quân sự, quốc phòng của Việt Nam đã tạo tiền đề vững chắc cho sự lựa chọn, kiên định, thống nhất triển khai thực hiện chính sách quốc phòng độc lập, tự vệ, vì hòa bình; là điều kiện thuận lợi cho xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời tự nó là minh chứng đanh thép đập tan những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, kêu gọi từ bỏ chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay./.

 

NVE40-CẢNH GIÁC VỚI CÁI GỌI LÀ “NHÂN DANH NHÂN DÂN”

 

Đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên môi trường mạng là một cuộc chiến đấu vô cùng cam go, khó khăn và ngày càng phức tạp. Điều này đòi hỏi cần có sự vào cuộc kịp thời, quyết liệt của cả hệ thống chính trị và huy động được sức mạnh của toàn dân. Và “nhân danh nhân dân” được các thế lực thù địch lợi dụng cái gọi là “nhân danh nhân dân”, “đại diện cho người dân” để xuyên tạc, kích động, lôi kéo người dân thực hiện các mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước ta. Đây là chiêu trò khá tinh vi, bài bản, đòi hỏi chúng ta phải cảnh giác để nhận diện và kiên quyết đấu tranh.

Với thủ đoạn: tạo ra sự đối lập, đẩy mâu thuẫn lên cao, châm ngòi cho các hoạt động chống đối chính quyền, cùng với việc xuyên tạc hình ảnh người dân thống khổ, các đối tượng chống phá còn thêu dệt nên hình ảnh của đảng độc tài, xã hội mất dân chủ, chính quyền yếu kém, quan tham,… không dừng lại ở đó, họ còn tìm mọi cách khai thác, nhào nặn, thêm thắt, thổi phồng những hạn chế, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Đặc biệt, lợi dụng việc một số cán bộ, đảng viên bị kỷ luật, đưa ra xét xử do liên quan đến những vụ án tham nhũng, tiêu cực, các đối tượng chống phá suy diễn, quy chụp, cho đó là tình trạng phổ biến, hệ quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, là “căn bệnh” do cơ chế độc đảng lãnh đạo,… gây hoài nghi và làm giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ngụy tạo hình tượng “người dân thống khổ” để đổ lỗi cho chính quyền đây cũng là một chiêu trò khá quen thuộc của các thế lực thù địch, nhằm tung tin giả để dẫn dắt dư luận theo mưu đồ của chúng. Theo đó, hình tượng người dân trong con mắt của các thế lực thù địch rất đa dạng, nhưng chung quy lại đều có hoàn cảnh thống khổ theo nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, họ bám vào các đối tượng vi phạm pháp luật1, đã bị xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng tội với các tội danh như: “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”, “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,... để “phù phép” thành những “người tử tế”, “người hùng”, những “tù nhân lương tâm”,… rồi kêu gọi, lập “hội nhóm”, ra sức kêu oan cho các đối tượng này.

Một chiêu thức khác là họ lợi dụng một số người dân có khiếu kiện với chính quyền để tạo ra “dân oan”. Không cần biết việc khiếu kiện đúng hay sai, một mặt, các thế lực thù địch tiếp cận, kích động để người dân thấy oan ức, tiếp tục các hoạt động khiếu kiện đông người, gây mất an ninh, trật tự xã hội,… mặt khác, họ sử dụng các phương tiện truyền thông để xuyên tạc, quy chụp chính quyền không vì lợi ích của người dân. Chúng còn hậu thuẫn cho các đối tượng chống đối trong các tôn giáo tạo cớ kêu gọi đòi đất đai trái pháp luật, gây chia rẽ tôn giáo với chính quyền, kích động một bộ phận nhân dân có đạo gây rối, làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Gần đây, xuất hiện một số trí thức, học sinh, sinh viên có nhận thức chính trị hạn chế, bị các thế lực thù địch lôi kéo, dụ dỗ tham gia bình luận, viết bài, quay video clip cổ súy quan điểm “dân chủ tư sản”, nói xấu chế độ, vu cáo, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước rồi tán phát trên blog, mạng xã hội và được các đài, báo phản động nước ngoài khai thác triệt để, tạo hình ảnh về một lực lượng quần chúng bất bình với chế độ ở trong nước.

Lợi dụng những khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các thế lực thù địch cũng không từ một thủ đoạn nào để khắc họa một bức tranh xám xịt, một tương lai không lối thoát cho đồng bào nơi đây. Cùng với đó, mảnh đất màu mỡ là “nhân quyền”, “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí” luôn được các thế lực thù địch cày xới để trồng những “mầm non” ảo tưởng về sự áp bức, bất công của chế độ ta.

Họ cũng rất “chịu khó” đi từng ngõ ngách của xã hội, lân la, dò hỏi, góp nhặt thông tin, hình ảnh một số người dân có những tranh chấp dân sự chưa được giải quyết thấu đáo, có hoàn cảnh khó khăn,… để xây dựng nên hình mẫu một người “dân oan” với những ngôn từ khổ sở, thê thảm, rồi kích động, xúi giục mọi người đấu tranh đòi quyền lợi cá nhân. Khi người dân sập bẫy thì những bài viết, video clip xuyên tạc, bóp méo sự thật được xuất hiện và nhanh chóng chia sẻ trên một số trang mạng của các tổ chức, cá nhân phản động, thiếu thiện chí. Trong đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ tư, khi cả hệ thống chính trị và toàn dân đang căng mình, nỗ lực để vừa chống dịch hiệu quả, vừa chăm lo tốt an sinh xã hội cho người dân thì các thế lực thù địch lợi dụng thời điểm khó khăn của đất nước, “đục nước béo cò” ra sức tung ra nhiều chiêu trò xuyên tạc, bóp méo sự thật, phủ nhận thành tựu chống dịch của đất nước. Thời điểm này, những luận điệu vu khống, sai sự thật, như: “người dân đấu tranh đòi quyền sống giữa đại dịch”, “hàng nghìn người tham gia biểu tình, tuần hành phản đối chính quyền, kéo lên phường cướp kho gạo vì bị bỏ đói hơn tuần nay”,… được chia sẻ rộng rãi trên một số trang mạng, xúi giục, kích động người dân phá rào cách ly, tấn công lực lượng chức năng. “Tát nước theo mưa”, các tổ chức phản động ở hải ngoại cũng ra sức hùa theo với luận điệu kích động, như: “dân đã bắt đầu biết xuống đường đấu tranh bất bạo động”, “Ai chưa nhận được hỗ trợ hãy làm như họ, xuống đường ngay và luôn”, v.v.

Song, dù có “khoác tấm áo người dân” với bất kỳ cái tên gì thì bản chất giả nhân, giả nghĩa của các thế lực chống đối đã dần bị bộc lộ. Mọi ngôn từ mĩ miều “thương cho dân”, đồng cảm với “nỗi khổ” của người dân cuối cùng đều dẫn đến mục đích chính trị của chúng là chống phá Đảng, Nhà nước. Bản chất xấu xa của những kẻ “đại diện cho người dân” đã bộc lộ hoàn toàn khi đưa ra những lời hô hào, xúi giục, kích động nhân dân “đoàn kết”, đấu tranh đòi “cái bánh vẽ” tự do, dân chủ, nhân quyền,... để phá hoại sự bình yên của cuộc sống, chống phá công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước ta.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp như hiện nay, cùng với việc nâng cao tinh thần chủ động phát hiện, đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch, cũng cần huy động sự vào cuộc tích cực của nhân dân. Đây sẽ là “bức tường” vững chắc để ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từng bước đánh bại âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch cái gọi là “đại diện cho người dân” này trước tòa cho thấy rõ chân tướng xấu xa của chúng. Và những kẻ ảo tưởng ngông cuồng về quyền lực, sống lưu vong, tị nạn chính trị theo đuôi các tổ chức phản động ở nước ngoài không có đủ tư cách để đại diện cho quyền lợi của người dân Việt Nam trong nước và người Việt yêu nước ở nước ngoài. Và, rắn độc vẫn mãi là rắn độc, các thủ đoạn, chiêu trò của họ nhằm gài bẫy người dân sẽ ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Do vậy, mỗi người dân cần đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận diện, tránh trở thành người tiếp tay cho tội phạm, là “con rối” bị các đối tượng chống đối lợi dụng, đưa vào vòng lao lý./.

 

NVD40 - Giữ vững phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trước ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa xấu độc hiện nay

 

Hiện nay sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 đã thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, với sự phát triển mạnh mẽ của internet, mạng xã hội, vừa là điều kiện thu hẹp khoảng cách giữa người với người, giao thoa các nền văn hóa, bên cạnh đó đây cũng là môi trường để phát tán, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đang từng ngày, từng giờ làm thoái hóa, vẩn đục các nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, các giá trị văn hóa, đạo đức xã hội, làm mầm móng cho các biểu hiện tiêu cực, tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu trong giới trẻ, trong đó có một bộ phận cán bộ, đảng viên, quân nhân có bản lĩnh chính trị không vững vàng đã sa vào các tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Các biểu hiện đó được thể hiện trên các mặt như sau:

Thứ nhất, tác động đến nhận thức, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ

Cuộc chiến xâm lăng về tư tưởng, văn hóa rất khác biệt so với chiến tranh thông thường. Đó là chiến tranh tâm lý, ngấm từ từ vào bộ đội, ban đầu làm lung lay, lệch lạc trong nhận thức, tư tưởng. Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gây ra nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại Đảng, Nhà nước, sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Thực tế đã xuất hiện tình trạng đáng báo động về việc nhiều người dân Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ, có không ít chiến sĩ trẻ có nhận thức chưa đúng, còn lệch lạc, sống thực dụng, buông thả, phai nhạt lý tưởng cách mạng và đạo đức, có dấu hiệu bị đồng hóa bởi các văn hóa nước ngoài mà quay lưng lại với truyền thống văn hóa tốt đẹp và lịch sử dân tộc ta.

Thứ hai, tác động đến lối sống, đời sống sinh hoạt

Các phương tiện truyền thông mới, đặc biệt là các mạng xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống, cách sinh hoạt, nhận thức, tư tưởng của bộ đội. Thực tế đã chứng kiến một số quân nhân sử dụng mạng xã hội để đăng thông tin, hình ảnh liên quan đến nội bộ đơn vị, gây ảnh hưởng đến hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, gây nguy cơ lộ lọt thông tin, nhất là những bí mật Nhà nước, bí mật Quân sự. Âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch được thực hiện bằng cách lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, chỉ huy; lợi dụng thông tin từ một số vụ việc tiêu cực đơn lẻ rồi xuyên tạc sự thật, thổi phồng thiếu sót, khuyết điểm; thường xuyên đăng tải những thông tin thật, giả lẫn lộn để đả kích, phủ nhận truyền thống, bản chất cách mạng của Quân đội, bôi nhọ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa quân đội với nhân dân, kích động đòi phi chính trị hóa quân đội, từ đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong quân đội; truyền bá những lối sống thực dụng, thẩm thấu tư tưởng văn hóa nước ngoài vào đời sống văn hóa, tinh thần, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, suy thoái về đạo đức của quân nhân. Các thông tin được chúng nhào nặn rất tinh vi, trộn lẫn thật-giả, tốt-xấu, khó nhận diện.

Như ta đã biết văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” phản ánh sâu sắc bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội nhân dân Việt Nam là sự kết tinh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần văn hóa quân sự Việt Nam. Truyền thống văn hóa Bộ đội Cụ Hồ được đúc kết từ những cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, được củng cố, phát triển qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; nền văn hóa ấy được gìn giữ, phát huy và hoàn thiện trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, việc chống lại sự xâm lăng văn hóa, giữ gìn giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng xem việc xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp lâu dài, cần kiên trì, thận trọng. Xâm lăng văn hóa ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ nhưng cũng là cơ hội để chúng ta nhìn nhận, đánh giá toàn diện hơn về những giá trị văn hóa đặc biệt này, từ đó đề ra những biện pháp khắc phục hiệu quả vừa cấp bách, vừa lâu dài để gìn giữ, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, trở thành tấm gương tiêu biểu cho đạo đức cách mạng và văn hóa dân tộc Việt Nam.

Để ứng phó với sự tác động của xâm lăng văn hóa đối với văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”, trước hết, chúng ta cần phải kiên đình, giữ vững lập trường chính trị, hình thành nhận thức đúng đắn, đầy đủ và bản lĩnh văn hóa, giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ trong quân đội. Điều đó phải đến từ việc hiểu rõ về văn hóa dân tộc. Về nhận thức, chúng ta cần xác định rằng nền văn hóa Việt Nam rất đã đạng, phong phú và cũng rất nhạy cảm, phức tạp trong giải quyết các vấn đề về văn hóa, vì thế, hiện tượng xâm lăng văn hóa cũng khó nhận biết rõ ràng. Vì vậy việc xác định và giữ gìn văn hóa dân tộc cần phải hết sức cụ thể, cẩn trọng, tỉ mỉ để phù hợp với mọi hoàn cảnh trong môi trường quân đội.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...