Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 21 tháng 9, 2017

Sự thật của luận điệu “Quân đội không nên làm kinh tế”

Trong thời gian qua, một số trang mạng xã hội đã đăng tải những bài viết xuyên tạc, phủ nhận vai trò quân đội tham gia hoạt động kinh tế, từ đó phủ nhận chức năng đội quân sản xuất của quân đội. Chúng đưa ra các luận điệu dưới dạng mập mờ như: “quân đội làm kinh tế – phúc và họa”, để hướng lái dư luận theo quan điểm sai trái rằng: “quân đội không nên làm kinh tế”.

Vậy bản chất của luận điệu sai trái này là gì? Có thể nhận thấy trên một số vấn đề cơ bản sau đây:

Một là, họ phủ nhận vai trò của quân đội trong thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Trong hầu hết các bài viết, họ đã tuyệt đối hóa chức năng đội quân chiến đấu của một số quân đội trên thế giới để phủ nhận chức năng đội quân lao động sản xuất của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, lao động tăng gia sản xuất đã trở thành một nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, góp phần tạo nên bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội. Hơn 70 năm qua, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tích cực tham gia làm kinh tế, đóng góp vào ngân sách Nhà nước; góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp quân đội đã trở thành tập đoàn kinh tế hùng mạnh, đứng vững trong cơ chế thị trường, vươn ra khu vực và thế giới. Không thể lợi dụng những hạn chế, mặt trái, các hoạt động không hiệu quả của một số doanh nghiệp quân đội có chức năng kinh tế đơn thuần, không gắn với quốc phòng để xuyên tạc, quy chụp, nói xấu bản chất chính trị, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.

Hai là, họ hướng lái dư luận và xã hội tước bỏ chức năng đội quân lao động sản xuất của quân đội. Đây là mục tiêu chính trị trước mắt của chúng nhằm làm suy yếu nguồn tài chính của quân đội có được trong hoạt động kinh tế vì mục tiêu quốc phòng. Từ việc tuyệt đối hóa chức năng đội quân chiến đấu của quân đội để rồi tư biện, viện dẫn những tài liệu lịch sử không chính xác, bịa đặt và đi đến phủ nhận chức năng, nhiệm vụ đội quân lao động sản xuất của quân đội – Một thủ đoạn rất nguy hiểm mà các thế lực thù địch mong muốn đạt được trong âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, phi chính trị hóa quân đội, làm suy yếu quân đội ta.

Trên thực tế, không có quân đội nào trên thế giới chỉ thực hiện chức năng chiến đấu đơn thuần. Hầu hết các đội quân viễn chinh, xâm lược trước kia và hiện nay luôn gắn liền với hoạt động quân sự, chiến đấu là nhằm hướng đến thực hiện mục tiêu kinh tế. Một bộ phận quân đội của các nước trên thế giới trước kia và hiện nay đều sử dụng đội quân đánh thuê. Đánh thuê cũng là một hoạt động, một động cơ để làm kinh tế bằng sự lợi nhuận có được từ sự tước đoạt kinh tế của các dân tộc khác. Hiện nay, một số quân đội các nước tư bản thực hiện các chiến dịch quân sự, hoạt động quân sự cũng đều dựa vào các hợp đồng kinh tế. Còn tiền thì họ còn chiến đấu, hết tiền, hết hợp đồng kinh tế thì các đội quân đó không chiến đấu nữa. Có những quân đội hung hăng tiến công các nước khác chỉ nhằm tỏ rõ tính ưu việt, quảng cáo các vũ khí trang bị hiện đại, lôi kéo, kích động các nước khác chạy đua vũ trang, thực hiện các hợp đồng kinh tế, mua sắm vũ khí trang bị. Trái lại, Quân đội nhân dân Việt Nam, – quân đội của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, thực hiện chức năng nhiệm vụ lao động sản xuất là để tự lực, tự cường, tăng cường, củng cố sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, thì không có lẽ gì lại không thực hiện nhiệm vụ lao động sản xuất và làm kinh tế.

Ba là, họ tìm cách triệt tiêu các tiềm lực kinh tế, chính trị và quân sự của quân đội khi quân đội tham gia vào hoạt động kinh tế. Đây là âm mưu nham hiểm của các thế lực thù địch hòng làm suy yếu và sụp đổ hoàn toàn công cụ bạo lực vũ trang của Đảng, Nhà nước, nhân dân và sức mạnh quân sự quốc phòng của Tổ quốc. Không muốn cho quân đội làm kinh tế không chỉ là mưu đồ làm suy yếu tiềm lực kinh tế quân sự của Nhà nước, mà còn làm ảnh hướng đến tiềm lực chính trị – quân sự của quân đội và quốc gia. Với bản chất chính trị và truyền thống tốt đẹp của mình, việc Quân đội nhân dân Việt Nam làm kinh tế không phải vì kinh tế thuần túy mà vì sự nghiệp quốc phòng. Thông qua làm kinh tế mà quân đội làm chủ các quy trình sản xuất vũ khí và công nghệ quốc phòng hiện đại, nâng cao khả năng tự chủ, tự lực về vũ khí, trang bị, sẵn sàng cho công cuộc quốc phòng. Thông qua làm kinh tế mà quân đội gắn bó, đoàn kết với nhân dân, tuyên truyền, vận động mọi tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối và chính sách quốc phòng toàn dân. Thông qua làm kinh tế của quân đội mà những địa bàn chiến lược của Tổ quốc được bày đặt và xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc; những công trình quốc phòng, phòng thủ trọng yếu được bảo mật chặt chẽ, giữ gìn an ninh, bí mật quốc gia, bảo đảm cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc không bị động bất ngờ.

Giai đoạn hiện nay, tư tưởng xây dựng một số đơn vị quân đội theo hình thức kinh tế kết hợp quốc phòng đang chứng tỏ được tính đúng đắn, ưu việt của nó. Điều cần thiết lúc này là tìm ra những giải pháp để các đơn vị trong toàn quân thực hiện hiệu quả hơn nhiệm vụ xây dựng kinh tế, phù hợp với đặc điểm của mình. Rõ ràng, vấn đề cơ bản là phân định những doanh nghiệp nào của quân đội có chức năng kinh tế đơn thuần trùng với các chức năng khác của các doanh nghiệp nhà nước thì cơ cấu, bố trí lại hoặc chuyển giao cho nhà nước quản lý. Còn doanh nghiệp quân đội nào có chức năng quốc phòng thì phải tăng cường củng cố, mở rộng và phát huy hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay…Như vậy, các quan điểm phủ nhận quân đội làm kinh tế là hoàn toàn sai lầm, với dụng ý xấu, làm suy yếu quân đội, cần phải lên án, phê phán và bác bỏ. 

Phê phán quan điểm "Chủ nghĩa xã hội chỉ là ảo tưởng, không thể thực hiện được"

Ngay từ khi mới ra đời chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng luôn bị các lực lượng thù địch chống phá. Đặc biệt, sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, sự chống phá càng quyết liệt hơn. Chúng cho rằng, CNXH là không tưởng bởi nó được “dựng” lên từ một hệ thống triết học tư biện chứ không phải từ hiện thực khách quan. Đồng thời, chúng cho rằng, không thể có một xã hội hoàn hảo như chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra. Đó là “một giấc mơ về xã hội không tưởng” và theo chúng đó là một xã hội không thể thực hiện được.

Thứ nhất,những kẻ phê phán chủ nghĩa Mác và bác bỏ lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học không thấy được rằng  học thuyết Mác về Chủ nghĩa xã hội không phải là hệ thống tư biện mà trước hết đó là sự khái quát hóa từ việc nghiên cứu quá trình hình thành, vận động và phát triển của lịch sử xã hội. Nghiên cứu lịch sử phát triển nhân loại, Mác đã xuất phát từ cơ sở nền tảng của xã hội đó là phương thức sản xuất. Từ đó, phản ánh đúng bản chất, tìm ra quy luật chi phối đến sự vận động và phát triển của xã hội và cũng thông qua đó, Mác đã dự báo về sự vận động và phát triển của xã hội, đó là dự báo hoàn toàn được dựa trên cơ sở khoa học đúng đắn chứ không phải là sự “tư biện”.

Thứ hai, chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời xuất phát từ hiện thực khách quan. Học thuyết Mác ra đời trong điều kiện Chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ và bộc lộ những hạn chế không thể tránh khỏi. Mác và Ăngghen đã tìm ra quy luật vận động của xã hội loài người, đặc biệt là quy luật vận động của Chủ nghĩa tư bản thông qua ba phát kiến vĩ đại, đó là: Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội; học thuyết về giá trị thặng dư và học thuyết về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Lý luận về chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa không phải là từ ý muốn chủ quan của mình mà từ chính bản thân quá trình phát triển khách quan của lịch sử nhân loại. Nếu như các nhà tư tưởng trước Mác thường lý giải sự phát triển của lịch sử ở những nguyên nhân tinh thần, thì Mác và Ăngghen là những người đầu tiên đã phát hiện ra một sự thật lịch sử “không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Đây chính là xuất phát điểm để giải thích toàn bộ lịch sử nhân loại trên lập trường duy vật biện chứng.

Từ điểm xuất phát đó, Mác, Ăngghen đã tìm ra quy luật vận động và phát triển của xã hội. Theo Mác, Ăngghen, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định xã hội bao giờ cũng có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên cơ sở hạ tầng ấy. Mác, Ăngghen đã chỉ ra sự vận động và phát triển của lịch sử xét đến cùng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo đó, trong một hình thái - kinh tế xã hội, lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội.

Thứ ba, chủ nghĩa xã hội đã và đang là hiện thực của lịch sử nhân loại. Sau thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga, nước Nga đã tiến hành xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là bước ngoặt to lớn đánh dấu chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Cách mạng tháng mười Nga đã chứng minh dự báo của Mác và Ăngghen về tính tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Đồng thời cuộc cách mạng ấy cũng đã mở ra cho nhân loại một xu hướng mới về xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái, đối lập với chế độ áp bức, bóc lột, bất công trong chế độ tư bản chủ nghĩa.Sự đổ vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô không có nghĩa là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một học thuyết cách mạng và khoa học. Một học thuyết đã vạch đường cho sự giải phóng hoàn toàn, triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức, xây dựng một xã hội phồn vinh, công bằng, văn minh - xã hội Xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, do những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử nhất định mà ngay từ trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 đã xác định: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các mục tiêu được Đảng Cộng sản Việt Nam thực thi như: xây dựng Hiến Pháp, thực hiện các quyền tự do, dân chủ công dân, xóa bỏ tô, thuế của chế độ thực dân, phong kiến...

Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng, sụp đổ đã xuất hiện không ít tư tưởng hoài nghi về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trước bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vạch ra mô hình và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, nhất là qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về con đường đi lên CNXH. Đảng xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giảu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trong quá trình thực hiện mục tiêu ấy như: thể chế chính trị do nhân dân làm chủ được bảo đảm thực hiện, quyền dân chủ  của nhân dân không ngừng được tăng lên, quá trình CNH, HĐH được đẩy mạnh, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố vững chắc, quan hệ quốc tế không ngừng được mở rộng, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao ... đã cho thấy, chủ nghĩa xã hội không phải là ảo tưởng mà là hiện thực. Hiện thực ấy là đòn giáng trả đanh thép dành cho những kẻ cơ hội chính trị bám theo đuôi phương Tây đang hàng ngày, hàng giờ kêu gào đòi từ bỏ chủ nghĩa xã hội.

Chúng ta đủ tự tin để khẳng định rằng, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội là hiện thực khách quan, là sự vận động tất yếu của lịch sử xã hội. Bởi đó chính là ước mơ, là khát vọng của con người. Là xã hội mà con người vẫn luôn hướng tới.

Ý nghĩa của đất quốc phòng trong giai đoạn hiện nay

Quân đội Nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội luôn được Đảng,  Nhà nước và nhân dân giao cho những trọng trách vô cùng to lớn. Bên cạnh việc quản lý, khai thác các loại vũ khí, khí tài quân sự có giá trị kinh tế cao, Quân đội còn được giao cho quản lý, sử dụng một diện tích khá lớn đất quốc phòng.

Trước hết chúng ta cần hiểu cách chính xác rằng đất quốc phòng không phải đất của riêng Bộ quốc phòng mà là đất được Nhà nước giao cho Bộ quốc phòng quản lý, sử dụng vào mục đích quốc phòng.

Đất quốc phòng có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược phòng thủ quốc gia, đây là diện tích đất được sử dụng vào mục đích xây dựng nơi đóng quân, làm căn cứ quân sự, công trình phòng thủ quốc gia, trận địa, bãi tập, kho tàng, nhà máy, bệnh viện…Chính vì vậy việc duy trì quỹ đất quốc phòng thường xuyên là điều tất yếu (ngay cả với những trận địa dự bị tạm thời để trống chỉ dùng trong diễn tập) và đã được công nhận trong pháp luật của nước ta.

Trong những năm vừa qua, về cơ bản diện tích đất quốc phòng không có nhiều biến động, các đơn vị trong toàn quân đã quản lý, sử dụng diện tích đất được giao tương đối hiệu quả, đúng quy định của pháp luật, phối hợp tốt với chính quyền địa phương nơi đóng quân giải quyết các vướng mắc, bất cập nảy sinh, đảm bảo phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Ở quy mô lớn hơn chúng ta đã kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc phòng và lợi ích kinh tế, có nhiều diện tích đất đã được quân đội bàn giao cho các địa phương quản lý với mục đích phát triển kinh tế xã hội, theo chiều ngược lại, không ít đơn vị quân đội, do nhu cầu bức thiết về thao trường bãi tập, đặc biệt là các bãi tập vũ khí công nghệ cao cần diện tích lớn đã được các địa phương chuyển một số diện tích đất do địa phương quản lý sang sử dụng cho mục đích quốc phòng. Nhìn chung công tác quản lý sử dụng đất quốc phòng thời gian vừa qua đã được thực hiện đúng quy trình.

Hiện nay có một số luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch cho rằng trong thời bình phải trả lại phần lớn đất quốc phòng cho mục tiêu phát triển kinh tế, quân đội không nên chiếm giữ đất của dân. Đây là một luận điệu vô cùng phản động mà chúng ta cần phải lên án. Như chúng ta đều biết quân đội là lực lượng luôn sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống và để làm được điều đó thì hệ thống thao trường bãi tập và trận địa phải được duy trì thường xuyên ngay cả trong thời bình. Đặc biệt với những vùng đất biên giới hẻo lánh không một doanh nghiệp bên ngoài quân đội có thể tham gia xây dựng thì chỉ có bộ đội mới cho thể đảm bảo các nhiệm vụ tại vùng đất đó. Hay như những vùng đất mà người dân chưa đặt chân đến thì luôn cần có bộ đội đóng quân canh giữ bảo vệ chủ quyền. Kể cả nơi thành phố,  nếu bàn giao hết trận địa dự bị cho dân sinh thì khi có chiến tranh với tốc độ cao như hiện nay chúng ta cũng không kịp thời huy được người dân trả trận địa cho quân đội. Vì vậy đây là luận điệu vô cùng phản động của kẻ địch mà chúng ta cần vạch trần và lên án.

Tuy nhiên trên thực tế, việc quản lý sử dụng đất quốc phòng trong thời gian qua không phải là không có sai lầm, khuyết điểm nhất là trong việc phân định ranh giới, xác định số liệu chưa rõ ràng. Vì vậy để nâng cao hiệu quả việc quản lý sử dụng đất quốc phòng, chúng ta cần tập trung làm tốt một số vấn đề sau:

Một là, tiếp tục rà soát nắm chắc hiện trạng và nhu cầu sử dụng đất, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, sử dụng đất ở các cấp và quy hoạch sử dụng đất quốc phòng để quản lý có hiệu quả. Việc rà soát cần bám sát thực tiễn quá trình phát triển của đất nước cũng như yêu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Hai là, quy hoạch cụ thể các khu dân cư do quân đội tạo ra để giải quyết nhu cầu nhà ở cho gia đình quân nhân. Thiết nghĩ vấn đề này nên có cơ chế rõ ràng và thống nhất chỉ cho mượn nhà công vụ, sau khi nghỉ hưu thì trả lại cho quân đội, tránh tình trạng khi nhận được đất, nhà một số cá nhân sang nhượng nhà cho người khác dẫn tới tình trạng quỹ đất ngày càng hạn hẹp, khi có nhu cầu sử dụng cho các nhiệm vụ quân sự thì không thể thu hồi được.

Ba là, tăng cường hoàn thiện cơ chế quản lý đất quốc phòng. Đây là nội dung quan trọng hàng đầu, nhất là trong điều kiện hiện nay, yêu cầu sử dụng đất đai cho mục đích phát triển kinh tế ngày càng lớn, nhiều diện tích đất trong đó có đất quốc phòng chuyển sang để xây dựng khu công nghiệp.

Tóm lại, đất quốc phòng luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ xưa đến nay. Chúng ta cần khẳng định rằng việc duy trì thường xuyên quỹ đất quốc phòng ngay trong thời bình là vô cùng cần thiết cho nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Hiểu rõ vấn đề này giúp chúng ta đứng vững lập trường trước những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, đập tan mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” gây bạo loạn lật đổ, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Góp phần đấu tranh chống "Phi chính trị hóa" Quân đội

Thực hiện âm mưu “ Diễn biến hòa bình”, “ Bạo loạn lật đổ” đối với nước ta, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã sử dụng nhiều thủ đoạn thâm độc, trong đó luận điệu đòi “ phi chính trị hóa quân đội” mà chúng đã rêu rao bấy lâu nay là một thủ đoạn như vậy, thực chất của thủ đoạn này là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo Đảng ta đối với Quân đội – một nhân tố quyết định đến sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội nhân dân Việt Nam. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trong lịch sử hình thành giai cấp và đấu tranh giai cấp chúng ta phải khẳng định rằng không thể có và không bao giờ có quân đội đứng ngoài chính trị, quân đội phi giai cấp, quân đội của bất kỳ một quốc gia nào cũng đều phải gắn với giai cấp thống trị đã tổ chức ra nó. Những ai không thừa nhận điều này hoặc cố tình không hiểu điều này đều là luận điệu của bọn phản động, hay như V.I.Lenin đã gọi đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản với mục đích nhằm che đậy bản chất giai cấp của quân đội tư sản.

Nhà quân sự tư sản nước Phổ Clausewitz cho rằng “ Chiến tranh là sự kế tục của chính trị”, chiến tranh để thực hiện mục tiêu chính trị của giai cấp, trong đó quân đội là công cụ để thực hiện yêu cầu chiến tranh, như vậy quân đội ra đời luôn gắn với một giai cấp nhất định. Xa xưa hơn nữa, Tôn Tử - nhà quân sự thời Xuân thu chiến quốc của Trung Quốc với binh pháp nổi tiếng của mình đã chỉ ra rằng khi xem xét một cuộc chiến tranh đều phải nhìn vào năm yếu tố: Đạo, thiên, địa, tướng và pháp, trong đó Đạo là đạo nghĩa, là chính trị; Pháp là pháp lý, là cách thức tổ chức bộ máy quân đội tiến hành chiến tranh. Như vậy, theo Tôn Tử tổ chức quân đội phải hợp với đạo tức là không thể tách rời chính trị. Thứ hai, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt không thể điều hòa dẫn tới sự ra đời của nhà nước và trong hệ thống chính trị của mình nhà nước buộc phải tổ chức ra quân đội với tư cách là công cụ bạo lực vũ trang để bảo vệ thành quả đã đạt được qua cuộc đấu tranh giành quyền lực, như vậy quân đội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức và nuôi dưỡng nó, quân đội của bất kỳ xã hội nào cũng phụ thuộc vào đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Giai cấp công nhân với sứ mệnh lịch sử là giai cấp đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện thành công CNXH, cuối cùng là CNCS trên toàn thế giới. Để thực hiện sứ mệnh vẻ vang đó, giai cấp công nhân thông qua chính đảng tiên phong của mình tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và luôn giữ vững quyền lãnh đạo tuyệt đối lực lượng ấy, đây là nguyên tắc cốt lõi trong tổ chức xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Đối vơi cách mạng việt Nam, trung thành và vận dụng sáng tạo những lý luận và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê nin, nhất là học thuyết về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời trong chánh cương, sách lược vắn tắt, nhất là trong Nghị quyết Đội tự vệ đã nêu rõ để thực hiện nhiệm vụ cách mạng Đảng phải tổ chức ra Quân đội công nông và giữ quyền lãnh đạo tuyệt đối đội quân ây, đây là nguyên tắc bất di bất dịch bảo đảm cho quân đội luôn mang bản chất giai cấp công nhân, tính  nhân dân, tính dân tộc, là nhân tố cơ bản quyết định nhất đến sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Về thực tiễn, từ trước đến nay không có quân đội của bất kỳ quốc gia nào trung lập về chính trị hay đứng ngoài chính trị. Nhìn lại lịch sử ta thấy quân đội của các nước tư bản như Anh, Pháp, Mỹ…ngoài nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc thì quân đội của các nước này còn tiến hành xâm lược thuộc địa để thực hiện ý chí bóc lột nhân dân lao động thế giới và làm giàu giá trị thặng dư của giai cấp tư sản – là nguyên nhân dẫn tới chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai; tiến hành can thiệp quân sự vào các quốc gia khác nhằm thực hiện mục tiêu chính trị, thể hiện bản chất hiếu chiến của CNTB, phục vụ lợi ích của các thế lực tư bản độc quyền đứng sau các chính phủ phương tây đương nhiệm. Các cuộc chiến tranh do Mỹ phát động trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20 như chiến tranh vùng vịnh 1991, chiến tranh Nam Tư 1999, chiến tranh Apganistan 2001, chiến tranh Irac 2003, gần đây là Libya 2011 đều cho thấy quân đội Mỹ đã can dự vào đời sống chính trị của các nước nhằm lật đổ chính phủ đương nhiệm, thiết lập một chế độ mới thân cận và có lợi cho mục đích kinh tế, chính trị của Mỹ và phương tây. Mặc dù các nước tư bản duy trì chế dộ đa đảng thay nhau nắm quyền song về chính trị là nhất nguyên, là chính trị phục vụ mục tiêu của giai cấp tư sản và quân đội luôn luôn là công cụ để bảo vệ lợi ích, thể chế chính trị tư sản, cho nên những rêu rao kêu gọi quân đội trung lập chỉ là hình thức che đậy bản chất của CNTB, một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch âm mưu chống phá cách mạng các nước XHCN, trong đó có Việt Nam.

Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam trước đây cho thấy trước các thế lực quân sự hùng mạnh của quân đội xâm lược Pháp, Mỹ với đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, quân đội dưới dự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc, đánh bại hai đội quân xâm lược nhà nghề, đánh bại mục tiêu chính trị của chủ nghĩa đế quốc là ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa cộng sản đang lan ra toàn Đông Nam Á. Ngày nay, trước những biến động của thế giới, trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi càng phải đặc biệt quan tâm xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân.

Đất quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Đất đai là một trong những điều kiện không thể thiếu để tiến hành các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh... Đất đai sử dụng vào mục đích quốc phòng ở nước ta trong thời gian qua và hiện nay có những đặc điểm mà chúng ta không thể không lưu ý, trong khi tiến hành việc quy hoạch sử dụng đất. Do các cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chống lại cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân ta, dân tộc ta, nên chúng đã triển khai hoạt động quân sự trên địa bàn rộng lớn. Vì vậy, hệ thống căn cứ, cứ điểm, đồn bốt của chúng được xây dựng ở khắp nơi, từ miền núi, đồng bằng đến đô thị, đã sử dụng một diện tích đất khá lớn cho mục đích quân sự.

Sau khi nước nhà thống nhất, diện tích đất sử dụng cho mục đích quốc phòng trong cả nước, bao gồm: đất do quân đội ta sử dụng và đất do quân đội Mỹ, chư hầu và quân đội ngụy sử dụng trước đó, về cơ bản do các đơn vị quân đội ta quản lý. Đó là chưa kể diện tích đất sử dụng cho mục đích quốc phòng trong thời kỳ chúng ta tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc và phía Tây Nam.

Hiện nay, trước yêu cầu sử dụng đất cho mục đích phát triển kinh tế và dân sinh, một bộ phận đất sử dụng cho mục đích quốc phòng đã được chuyển sang làm mặt bằng cho phát triển các khu công nghiệp, cơ sở dịch vụ, văn hóa, xã hội và phát triển khu dân cư, trong đó có nhà ở cho cán bộ, sĩ quan quân đội. Trong quá trình lập quy hoạch sử dụng đất cho mục đích quốc phòng, giữa quân khu, quân chủng, binh chủng, quân đoàn và từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có sự bàn bạc thống nhất. Tuy nhiên, trong thời gian qua và hiện nay, đây đó vẫn đang tồn tại một số vấn đề xung quanh việc sử dụng đất cho mục đích quốc phòng. Một số địa phương cho rằng, đất do quân đội quản lý còn “quá lớn”, nhiều diện tích không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả, trong khi địa phương rất cần đất cho phát triển kinh tế-xã hội, phát triển khu dân cư. Mặt khác, tình trạng người dân lấn chiếm diện tích đất sử dụng cho mục đích quốc phòng hoặc các ngành, địa phương xây dựng các công trình dân dụng ảnh hưởng đến hoạt động quân sự vẫn còn xảy ra ở một số địa phương, nhưng vẫn không được ngăn chặn, xử lý kịp thời và triệt để...

Thực tế hiện nay, đất sử dụng cho mục đích quốc phòng không lớn, xét tổng thể, chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong diện tích đất tự nhiên của cả nước. Tuy nhiên, theo nguyên tắc “giữ nguyên hiện trạng” nên tại một số đô thị, trong một số trường hợp, đất sử dụng cho mục đích quốc phòng chiếm tỷ lệ đáng kể.  Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng hàng đầu, nhưng tăng cường tiềm lực quốc phòng-an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược rất quan trọng, không thể xem nhẹ. Để giải quyết vấn đề đất đai đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự-quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, mà vẫn bảo đảm được nhu cầu đất đai cho phát triển kinh tế-xã hội, phát triển khu dân cư, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:

Một là, trong công tác quy hoạch sử dụng đất, phải vừa bảo đảm nhu cầu đất cần thiết để sử dụng hẳn cho mục đích quốc phòng trong điều kiện hòa bình, vừa dự kiến diện tích đất phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế-xã hội, nhưng sẽ chuyển sang sử dụng cho mục đích quốc phòng trong điều kiện tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đối với đất vừa phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế-xã hội, vừa sẵn sàng chuyển sang sử dụng cho mục đích quốc phòng khi cần thiết, phải được quy định cụ thể diện tích nào được xây dựng công trình, diện tích nào được liên doanh với nước ngoài.

Hai là, tiếp tục rà soát nhu cầu đất sử dụng cho mục đích quốc phòng và việc sử dụng đất vào mục đích quốc phòng hiện có để điều chỉnh cho phù hợp. Việc điều chỉnh bao gồm: chuyển một số diện tích đất đang sử dụng cho mục đích quốc phòng sang mục đích dân sự và chuyển một số diện tích đất sử dụng cho mục đích dân sự sang mục đích quốc phòng. Việc điều chỉnh này là yêu cầu khách quan, cần thiết nhằm sử dụng đất đai một cách hiệu quả, hợp lý, đáp ứng nhiệm vụ củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng-an ninh, xây dựng quân đội nhân dân và phát triển kinh tế-xã hội trước mắt cũng như lâu dài.

Ba là, đối với đất sử dụng cho mục đích quốc phòng do quân đội trực tiếp quản lý, cần quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích. Những diện tích đất hiện tại chưa sử dụng, các đơn vị quân đội đang trực tiếp quản lý cần thông báo cho chính quyền địa phương biết sẽ được sử dụng như thế nào để tránh những vướng mắc, hiểu nhầm. Các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý đất sử dụng cho mục đích quốc phòng cần phối hợp với chính quyền địa phương trong việc bảo vệ, chống lấn chiếm trái phép, nhất là đối với các sân bay, trung tâm huấn luyện, trường bắn, thao trường, bãi tập...


Trên đây là những đề xuất ban đầu để nâng cao chất lượng, tính khả thi trong quy hoạch sử dụng đất cho mục đích quốc phòng. Đây là vấn đề lớn, cần có thời gian tiếp tục nghiên cứu, nhất là tham khảo ý kiến của các địa phương, các quân khu, quân chủng, binh chủng, quân đoàn... về hướng giải quyết, để bảo đảm thực hiện thắng lợi cả hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Luận điệu xuyên tạc mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc của các thế lực thù địch

Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đã có những bước phát triển mới, là mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện

Từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã có bước phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Năm 2008, hai nước thiết lập quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”. Hai nước đã ký nhiều hiệp định và văn kiện hợp tác, đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu dài. Hợp tác giữa hai Đảng được đẩy mạnh. Hai bên duy trì trao đổi đoàn và thiết lập cơ chế hợp tác, giao lưu giữa các Ban Đảng; tổ chức 10 cuộc hội thảo về lý luận giữa hai Đảng. Hai bên thành lập cơ chế Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương (2006) để điều phối tổng thể các mặt hợp tác trong quan hệ hai nước. Quan hệ giữa các ngành quan trọng như ngoại giao, an ninh, quốc phòng được đẩy mạnh, hai bên tiếp tục triển khai hiệu quả các thỏa thuận văn bản hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao (2002), hai Bộ Công an (2003), hai Bộ Quốc phòng (2003)… Quan hệ giữa các địa phương được tăng cường với nhiều hình thức phong phú. Kể từ khi bình thường hóa quan hệ, kim ngạch thương mại Việt – Trung tăng hơn 1.800 lần, từ 32 triệu USD (1991) lên gần 60 tỷ USD (2014), từ năm 2004, Trung Quốc là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch thương mại song phương năm 2014 đạt 58,78 tỷ USD. Năm 2016 và đầu năm 2017, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc tiếp tục duy trì xu thế phát triển tích cực và đạt nhiều tiến triển mới, hai bên tiếp tục tăng cường các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao. Thông qua các cuộc tiếp xúc, lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhất trí kiên trì ổn định, tôn trọng lẫn nhau, tăng cường trao đổi chiến lược, gia tăng tin cậy chính trị, làm sâu sắc hợp tác cùng có lợi, kiểm soát và xử lý thỏa đáng các bất đồng còn tồn tại và các vấn đề nảy sinh, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc tiếp tục phát triển lành mạnh, ổn định… Quan hệ hợp tác giáo dục, văn hoá, thể thao và du lịch tiếp tục phát triển. Về giáo dục: hiện có hơn 13.500 lưu học sinh Việt Nam đang học tại các trường đại học của Trung Quốc và khoảng trên 4.000 học sinh Trung Quốc đang du học tại Việt Nam. Hai bên đang tích cực triển khai “Kế hoạch thực hiện Hiệp định văn hóa Việt – Trung giai đoạn 2013 – 2015”; thúc đẩy việc thành lập Trung tâm văn hóa của nước này tại nước kia. Hàng năm, hai bên trao đổi nhiều đoàn biểu diễn nghệ thuật, giao lưu văn hoá – thể thao, góp phần tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

 Lợi dụng một số vấn đề còn bất đồng, tranh chấp về chủ quyền biển đảo giữa ta và Trung Quốc trên biển Đông, Phạm Trần đã cố tình xuyên tạc cho rằng chúng ta quá lệ thuộc vào Trung Quốc.

Sự thật mà Phạm Trần cố tình lờ đi, đó là giữa ta và Trung Quốc hai bên đã ký kết “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc” (2011), làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Theo đó, hai bên nhất trí kiên trì giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần DOC. Trên cơ sở thỏa thuận này, hai bên đã thành lập cơ chế đàm phán cấp chuyên viên về khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và cơ chế đàm phán cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Đến nay, sau các vòng đàm phán, hai bên đã đạt một số kết quả gồm, nhất trí thành lập Tổ chuyên gia kỹ thuật khảo sát chung phục vụ công tác phân định và hợp tác cùng phát triển tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ; nhất trí chọn ra 03 dự án trong lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển để nghiên cứu và triển khai thí điểm, gồm: Dự án về hợp tác trao đổi, nghiên cứu về quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, Dự án về nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang và Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong quá trình tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, hai bên đã thành lập và đưa vào hoạt động Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về Biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc (2013) nhằm nghiên cứu và bàn bạc về các giải pháp mang tính quá độ, không ảnh hưởng lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm vấn đề hợp tác cùng phát triển”. Tuy nhiên, giải quyết việc tranh chấp trên biển là vấn đề lịch sử, phức tạp, lâu dài khi xem xét cần phải kiên trì, bản lĩnh, tỉnh táo, tránh nóng vội chủ quan. Hai bên đã nhất trí giải quyết trên tinh thần nhìn từ tầm cao chiến lược, vì lợi ích của nhân dân hai nước, phù hợp với luật pháp quốc tế và quan hệ hữu nghị, truyền thống, không để ảnh hưởng đến sự phát triển, ổn định của mối quan hệ hai nước.

Tóm lại, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch là phiến diện, thiếu khách quan, không có cơ sở, cố tình xuyên tạc mối quan hệ Việt – Trung và đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ cũng như quan điểm về giải quyết mâu thuẫn, bất đồng trên biển Đông của Đảng và Nhà Nước ta hiện nay. Do vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc của chúng./.

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN - là vấn đề tất yếu, không thể xuyên tạc

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xu thế phát triển tất yếu của thời đại. Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước vượt qua bao khó khăn, thử thách và không ngừng đưa đất nước ngày càng phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, điều đó đã được chứng minh trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm dưới sự lãnh đạo của Đảng và thành tựu của đất nước qua hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ năm 1990 trở lại đây đạt 7,5%, sự đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng, Việt Nam được đánh giá là nước có nền chính trị ổn định nhất thế giới. Tiền đề căn bản cho Đảng lãnh đạo đất nước đạt được những thành tựu đó là: Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam từ khi đất nước giành được độc lập đến nay đó là: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng.

Thế nhưng các thế lực thù địch với động cơ chính trị đen tối, luôn tìm mọi cách phủ nhận, xuyên tạc, tách rời hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thực tiễn Lê Nin đã chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ” ; Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định khi về thăm Đền Hùng “Các vua hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Trải qua các giai đoạn cách mạng, cùng với đường lối xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược sống còn.


Từ nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong các kỳ đại hội, nhất là qua hơn 30 năm đổi mới, tư duy xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta có sự phát triển và đổi mới mạnh mẽ. Đại hội lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đã nêu nhận thức mới về nội hàm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế: Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Lịch sử đã chứng minh, quy luật phát triển của đất nước ta là dựng nước luôn luôn đi đôi với giữ nước, xây dựng luôn luôn đi đôi với bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã giành được độc lập, tự do, thống nhất đất nước và có vị thế ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta nhất định sẽ giành thắng lợi trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội như sinh thời Bác Hồ hằng mong muốn. Do vậy, chúng ta chúng ta phải luôn sáng suốt nhận diện và kiên quyết bác bỏ các quan điểm âm mưu đen tối, chống phá của các thế lực phản động, thù địch tách rời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay cũng như trong tương lai

Phản bác luận điệu "Phi chính trị hóa" Quân đội - Cơ sở lý luận và thực tiễn

Trước hết, cần khẳng định: “phi chính trị hóa quân đội” là một luận điệu, nội dung trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch; mục tiêu hướng tới là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Quân đội, làm cho Quân đội xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội không còn là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Luận điệu đòi “phi chính trị hóa quân đội” rất thâm hiểm nhưng hoàn toàn sai cả về lý luận và thực tiễn.

Một là, bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng có mục tiêu chính trị, quân đội của các bên tham chiến đều được lực lượng chính trị cầm quyền tổ chức, giáo dục để thực hiện mục tiêu chính trị đó. Bởi vậy, không thể có quân đội đứng ngoài chính trị.

Hai là, quân đội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức ra nó, bởi quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của nhà nước để bảo vệ thành quả mà lực lượng chính trị cầm quyền có được thông qua các cuộc đấu tranh giành quyền lực.

Ba là, từ kinh nghiệm xây dựng Hồng quân Liên Xô. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, V.I.Lênin đã coi Hồng quân là trụ cột của chính phủ cách mạng, lực lượng nòng cốt để bảo vệ chính quyền còn rất non trẻ. V.I.Lênin luôn đặc biệt quan tâm đến xây dựng quân đội về chính trị. Hơn 70 năm, Quân đội Liên Xô luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên xô, trưởng thành vững mạnh, thực sự là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Song cũng chính từ đây, một quân đội hùng mạnh trên thế giới, nhưng trước âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù và những sai lầm, đã làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo quân đội, quân đội mất phương hướng chính trị, cầm súng nhưng không biết bảo vệ ai, hậu quả chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ.

Bốn là, từ thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam, có thể thấy: Quân đội ra đời từ các phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, được Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện để giành và giữ chính quyền cách mạng nên bản thân nó đã là một lực lượng chính trị. Hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã chứng minh: Quân đội là lực lượng chính trị trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về mục tiêu chiến đấu của Quân đội với mục tiêu chính trị của Đảng, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì thế, trái với luận điệu “phi chính trị hóa quân đội”, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. 

Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, mà cốt lõi là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội là một bài học thành công của Đảng ta trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã kiểm nghiệm và khẳng định tính đúng đắn của bài học đó.

Nhờ chăm lo xây dựng vững mạnh về chính trị, mà trước hết là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong mọi giai đoạn cách mạng, xứng đáng với lời tuyên dương của Bác: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. 


Chống âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” và tăng cường xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là hai mặt của quá trình xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chinh quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại". Đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là sự nỗ lực của bản thân Quân đội nhân dân.

Biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất quốc phòng

Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề quản lý, sử dụng đất quốc phòng đặt ra vừa cấp thiết, vừa có tính chiến lược lâu dài. Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất quốc phòng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.   

Đất quốc phòng là một phần quỹ đất của quốc gia, được Nhà nước giao cho Bộ Quốc phòng quản lý, sử dụng vào mục đích: xây dựng nơi đóng quân, làm căn cứ quân sự, công trình phòng thủ quốc gia, trận địa, bãi tập, kho tàng, nhà máy, bệnh viện... và các công trình quốc phòng khác. Do yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đất quốc phòng được phân bố trải rộng trên địa bàn cả nước, từ thành thị đến nông thôn, từ vùng núi, biên giới đến vùng biển, đảo, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm cả về kinh tế-xã hội (KT-XH) và quốc phòng-an ninh (QP-AN), nên vấn đề quản lý, sử dụng đất quốc phòng luôn được sự quan tâm của các bộ, ngành, địa phương và nhân dân, nhất là những địa phương mà trên địa bàn có đơn vị bộ đội đứng chân.

Công tác quy hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng thời gian qua đã được thực hiện đúng quy trình, quy định của pháp luật về đất đai, đáp ứng được yêu cầu đất đai cho quy hoạch xây dựng các công trình phòng thủ quốc gia, như: hệ thống kho tàng, thao trường, bãi tập, căn cứ, nơi đóng quân, nhất là hệ thống đường tuần tra biên giới, đường quốc phòng ven biển, vừa đảm bảo tốt yêu cầu phòng thủ quốc gia, sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), bảo vệ Tổ quốc, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của đất nước.

Tuy vậy, thực tiễn quản lý, sử dụng đất quốc phòng trong thời gian qua cũng còn một số hạn chế, bất cập; nhất là việc phân định ranh giới, xác định số liệu thống kê chưa rõ ràng, chính xác, dẫn tới sự tranh chấp giữa một số đơn vị với địa phương nơi đóng quân, thậm chí có những tranh chấp kéo dài nhiều năm nhưng chưa giải quyết dứt điểm, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về đất quốc phòng. Mặt khác, việc quy hoạch sử dụng đất quốc phòng đã tiến hành nhiều năm, nhưng chưa được điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của đất nước, của địa phương trong từng thời kỳ, dẫn đến một số nơi, quỹ đất cần thiết dành cho thao trường, bãi tập phục vụ huấn luyện, SSCĐ của một số đơn vị chưa được địa phương sở tại quan tâm đúng mức.

Thời gian tới, để tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất đai cho mục đích quốc phòng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, cần tập trung giải quyết tốt hai vấn đề sau:

Một là, tiếp tục rà soát nắm chắc hiện trạng và nhu cầu sử dụng đất, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp và quy hoạch sử dụng đất quốc phòng để quản lý có hiệu quả. Trước hết, cần tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 618/CT-TTg, ngày 15-5-2009 của Thủ tướng Chính phủ về kiểm kê đất đai; trong đó, cần tập trung đánh giá hiện trạng việc quản lý, sử dụng đất quốc phòng của các đơn vị trong thời gian qua; đồng thời, xác định nhu cầu sử dụng đất vào mục đích quốc phòng trong thời gian tới, làm cơ sở để xác định chỉ tiêu đất cho mục đích quốc phòng trong quy hoạch sử dụng đất quốc gia đến năm 2020. Để làm được điều đó, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Quốc phòng trong việc chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các cấp phối hợp   với các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng..., rà soát nắm chắc quỹ đất quốc phòng và nhu cầu sử dụng của từng đơn vị; trên cơ sở đó, bàn bạc thống nhất, xác định ranh giới, mốc giới và số liệu thống kê chính xác để điều chỉnh cho phù hợp. Hiện nay, do sự phát triển của yêu cầu nhiệm vụ, một số đơn vị quân đội, nhất là các đơn vị đóng quân trên địa bàn đô thị còn thiếu đất để bố trí thao trường, bãi tập, các cơ sở hậu cần-kỹ thuật..., phục vụ cho huấn luyện, SSCĐ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ QP-AN ngay trên địa bàn; trong khi đó, khu vực thành phố, thị xã thường có mật độ dân số đông, nhu cầu phát triển KT-XH rất lớn, nhưng quỹ đất lại hạn hẹp. Vì vậy, trong quá trình rà soát, điều chỉnh, cần căn cứ vào nhu cầu và tình hình thực tế để xác định và bổ sung quỹ đất vào mục đích quốc phòng cho các đơn vị quân đội phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài; đồng thời, chuyển một số diện tích đất đang sử dụng cho mục đích quốc phòng ở các vị trí thuận lợi, sang mục đích phát triển KT-XH, phát triển khu dân cư. Đây là sự điều chỉnh khách quan, cần thiết nhằm sử dụng đất đai một cách hiệu quả, hợp lý, đáp ứng nhiệm vụ củng cố, tăng cường QP-AN và phát triển KT-XH của đất nước. Tuy nhiên, khi chuyển đổi diện tích đất đang sử dụng từ mục đích dân sự sang mục đích quốc phòng và ngược lại, cần tiến hành theo đúng quy định của pháp luật và làm tốt công tác tuyên truyền để nhân dân biết mục đích sử dụng, tránh những vướng mắc, hiểu nhầm. Bên cạnh đó, các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý đất sử dụng cho mục đích quốc phòng cần phối hợp với chính quyền địa phương trong việc bảo vệ mốc giới, chống lấn chiếm trái phép, nhất là các khu vực trường bắn, sân bay, thao trường huấn luyện...


Hai là, tăng cường hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng đất đai vào mục đích quốc phòng. Đây là nội dung quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất đai nói chung, đất đai sử dụng vào mục đích quốc phòng nói riêng. Nhất là trong điều kiện hiện nay, trước yêu cầu sử dụng đất đai cho mục đích phát triển KT-XH ngày càng tăng, nhiều diện tích đất, trong đó có đất quốc phòng được chuyển sang để xây dựng các khu công nghiệp, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thì việc hoàn thiện cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất quốc phòng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc càng có ý nghĩa quan trọng./.

Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là một chức năng cơ bản, nhiệm vụ chính trị quan trọng có ý nghĩa chiến lược lâu dài, là phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc

Như chúng ta đã biết Quân đội ta là quân đội cách mạng, “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ. Chức năng cơ bản đó của Quân đội nhân dân Việt Nam được xác lập quy định ngay từ ngày đầu thành lập và được khẳng định, phát huy trong suốt chặng đường xây dựng, chiến đấu, trưởng thành hơn 73 năm qua. Bởi vậy, dù ở bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cùng với thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, Quân đội ta luôn chủ động, tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế bằng hình thức, biện pháp phù hợp, đúng định hướng của Đảng. Qua đó, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mặc dù chiến tranh ác liệt, nhưng Quân đội ta luôn nêu cao tinh thần tự lực tự cường, tích cực tăng gia, sản xuất cải thiện đời sống bộ đội; tham gia sản xuất xây dựng hậu phương lớn miền Bắc, xây dựng căn cứ hậu cần tại chỗ trên các vùng chiến lược, thực hiện tốt chủ trương, đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam” của Đảng. 

Sau khi đất nước thống nhất, Quân đội là lực lượng xung kích, nòng cốt, tham gia đắc lực vào hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trên các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo (Sau năm 1975, Quân đội đã chuyển 28 vạn cán bộ, chiến sĩ sang làm nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế ).
Trước nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, những năm gần đây, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã quán triệt, cụ thể hóa hai nhiệm vụ chiến lược và đường lối của Đảng, ban hành nhiều nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Trọng tâm là Nghị quyết số 71/ĐUQSTW, ngày 25-4-2002 “Về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời kỳ mới - tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Quân đội”; Nghị quyết số 520-NQ/QUTW, ngày 25-9-2012 về “Lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2020”; Thông tư số 69/2017/TT-BQP ngày 03-4-2017 của Bộ Quốc phòng ban hành Quy chế quản lý hoạt động SXXD kinh tế của Quân đội.

Trên cơ sở đó, nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và có bước phát triển toàn diện, đạt kết quả quan trọng cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh. Nổi bật là, Quân đội đã phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, tham gia xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo, vùng căn cứ cách mạng. Đến nay, Quân đội đã xây dựng 26 khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, vị trí trọng yếu về quốc phòng, an ninh. Các đoàn kinh tế - quốc phòng đã phối hợp với địa phương xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, tổ chức quy hoạch, bố trí lại dân cư, tạo việc làm, điều kiện bền vững cho hàng trăm nghìn hộ dân định cư lâu dài, hình thành hàng trăm điểm, cụm dân cư tập trung trên vành đai biên giới, địa bàn xung yếu, tạo thế bố trí chiến lược mới trên các địa bàn, hướng chiến lược. Đồng thời, tích cực hỗ trợ, giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo, phát triển sản xuất, kết hợp thực hiện công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị , v.v. Các khu kinh tế - quốc phòng thực sự là nhân tố quan trọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh của đất nước.

Các doanh nghiệp Quân đội - lực lượng chủ yếu trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội, đã không ngừng đổi mới, phát triển, hội nhập, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh gắn với thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Quân đội đã chủ động vượt khó vươn lên, hoạt động theo đúng pháp luật Nhà nước, quy định của Bộ Quốc phòng, sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm chất lượng cao phục vụ quốc phòng và xã hội, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho hàng vạn lao động. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp Quân đội có thương hiệu, giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và là lực lượng dự bị mạnh cho quốc phòng; là đối tác kinh tế quốc tế có uy tín, góp phần tích cực vào công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế. Chỉ tính riêng năm 2016, tổng doanh thu của các doanh nghiệp Quân đội đạt gần 350 nghìn tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế đạt trên 43 nghìn tỷ đồng; nộp ngân sách Nhà nước trên 40 nghìn tỷ đồng. Các doanh nghiệp Quân đội đã và đang khẳng định rõ vị thế trong nền kinh tế, đóng góp tích cực vào sự ổn định, phát triển kinh tế vĩ mô, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo đảm an sinh xã hội.

Bên cạnh đó, các đơn vị thường trực, đơn vị sự nghiệp công lập cũng tích cực phát huy nội lực, đẩy mạnh tăng gia, sản xuất và làm một số dịch vụ theo quy định. Qua đó, tạo nguồn thu trực tiếp cải thiện đời sống bộ đội và tham gia có hiệu quả vào việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đóng quân, nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng cao, biên giới, hải đảo, v.v.

Thực tiễn hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội và những kết quả đạt được đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc huy động Quân đội tham gia xây dựng kinh tế; cho thấy Quân đội ta luôn quán triệt, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, vừa làm tròn vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, vừa tham gia tích cực, có hiệu quả vào công cuộc đó. Mặc dù còn những khuyết điểm, thiếu sót, song với những kết quả quan trọng đạt được trên “mặt trận lao động sản xuất” những năm qua cho thấy, Quân đội đã thực sự trở thành một nguồn lực của đất nước trong phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; là lực lượng nòng cốt giải quyết các vấn đề khó khăn về quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội trên các địa bàn chiến lược, nơi biên giới, hải đảo, vùng biển đặc quyền kinh tế của Tổ quốc. Thông qua sản xuất, xây dựng kinh tế, Quân đội đã góp phần điều chỉnh lại lực lượng sản xuất trên các vùng, miền, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu quốc phòng, tạo nên thế trận kinh tế - quốc phòng vững mạnh trên các địa bàn chiến lược, nơi phên giậu của đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; tạo ra nguồn của cải vật chất đáng kể cho xã hội, nguồn thu bổ sung cho ngân sách quốc phòng, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tăng cường nguồn lực cho phát triển. Đồng thời, tạo ra điều kiện vật chất, kỹ thuật, công nghệ cho xây dựng lực lượng, thế trận, tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, v.v.

Trong những năm tới, nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng; nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước những thuận lợi và cơ hội to lớn, song cũng có không ít khó khăn, thách thức. Để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ mới, đòi hỏi Quân đội cùng với tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, cần tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, đóng góp nhiều hơn nữa vào phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường tiềm lực, sức mạnh của đất nước. 

Giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga

Cách đây 100 năm, ngày 7-11-1917, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga do V.I.Lê-nin và Ðảng Bôn-sê-vích lãnh đạo - cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trong lịch sử thế giới giành thắng lợi, lập nên nhà nước công nông, do giai cấp công nhân nắm chính quyền để xây dựng một xã hội mới, xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến biết bao biến cố thăng trầm, phức tạp, khó khăn trong đáu tranh của toàn thể nhân dân. Nhưng Cách mạng Tháng Mười là một trong những sự kiện trọng đại nhất của lịch sử thế giới hiện đại, tiếp tục toả sáng, soi rọi cuộc đấu tranh tự giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, tiếp thêm nguồn sinh lực cho phong trào XHCN hiện nay trên thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đi vào lịch sử nhân loại như là một sự kiện vĩ đại có tiếng vang trong thế kỷ 20 và tầm ảnh hưởng sâu rộng, làm rung chuyển thế giới, tác động toàn diện, sâu sắc nhất đến tiến trình phát triển của lịch sử thế giới

Cuộc cách mạng 10 ngày đã làm rung chuyển cả thế giới, phá vỡ mắt xích yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, đánh dấu bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng. Đây cũng là lần đầu tiên liên minh công nhân - nông dân - binh lính, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đã đồng loạt đứng lên lật đổ chế độ Nga hoàng, lập ra nhà nước Nga Xôviết - Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. Khác với mọi cuộc cách mạng xã hội đã diễn ra trong lịch sử, Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng xã hội đầu tiên thực hiện được mục tiêu: giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất công, nâng họ lên địa vị làm chủ chế độ xã hội mới, thực hiện được khát vọng giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và tiến tới giải phóng toàn nhân loại.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là động lực mạnh mẽ cổ vũ các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột của giai cấp phong kiến, tư sản, tự cứu lấy mình và giải phóng mình mà còn là xung lực mạnh mẽ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển; nhờ đó, giai cấp vô sản vững tin bước lên vũ đài chính trị với tư cách là giai cấp trung tâm của thời đại, “hạt nhân” của phong trào cách mạng thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã khẳng định sự đúng đắn, tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác được V.I. Lê-nin vận dụng, bổ sung một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn của nước Nga, một hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Những bài học mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu từ Cách mạng Tháng Mười Nga, đã được vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hồ Chí Minh và Đảng khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản mà “không có con đường nào khác”. Cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được nhiều thắng lợi, trong đó có những chiến công mang ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại như Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là khoa học, biện chứng, hiện đại

Hiện nay chủ nghĩa Mác – Lê-nin luôn bị các thế lực thù địch tăng cường xuyên tạc sự thật bóp méo, phủ nhận. Chúng hô hào, tung ra những luận điệu đặc biệt nguy hại, như: “Chủ nghĩa Mác chỉ là sản phẩm của nền công nghiệp cơ khí thế kỷ XIX, không thể áp dụng trong nền khoa học và công nghệ hiện đại với quy mô toàn cầu hiện nay”. Cả lý luận và thực tiễn cho thấy, đó là những quan điểm sai trái, xuyên tạc và bịa đặt.

Sở dĩ khẳng định được điều đó, xuất phát từ mục tiêu, lý tưởng mà chủ nghĩa Mác – Lê-nin là khát vọng chân chính về tiến bộ của nhân loại. Đó là, giải phóng con người hoàn toàn khỏi ách áp bức, bóc lột, làm cho con người được ấm no, tự do và hạnh phúc. Đây là ước vọng của toàn nhân loại ở khắp năm châu chứ không chỉ ở phương Tây và đâu phải chỉ đến cách mạng khoa học kỹ thuật thế kỷ XIX – XX mới có. Ước vọng đó có từ chế độ cộng sản nguyên thủy đến nay. Mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin là sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những mong muốn, ước vọng ngàn đời của con người và hoạch định trước về mục tiêu, hướng đích mà con người tất yếu phải đi tới một xã hội tương lai không còn áp bức, bóc lột, bất công. Logic về sự lựa chọn con đường tới đích cuối cùng của xã hội hiện thực ở cả phương Tây lẫn phương Đông đều nằm trong cái tất yếu mà chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã khái quát, tiên liệu.

Lịch sử đã chứng minh chủ nghĩa Mác – Lê-nin là khoa học biện chứng, hiện đại. Đây là khoa học nghiên cứu, luận giải về những quy luật phổ biến về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; về cách mạng của quần chúng bị áp bức, bóc lột, về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Giá trị bền vững tự nhiên của chủ nghĩa Mác – Lê-nin là sự chính xác về khoa học, tính toàn diện, hệ thống và biện chứng, nhằm giải phóng người lao động, giải phóng xã hội khỏi áp bức, bóc lột và mọi sự tha hóa, thực hiện một xã hội công bằng, nhân đạo. Thử hỏi, trước hay cùng thời với C.Mác, V.I.Lê-nin có khoa học nào đưa ra được một học thuyết hoàn bị đến như vậy? Sau C.Mác và V.I.Lê-nin có ai đưa ra được một khoa học về xã hội với mục tiêu tiến bộ, triệt để như các ông? Mục tiêu mà C.Mác và V.I.Lê-nin đưa ra chẳng phải là ước mơ ngàn đời nay của người lao động chân chính sao? Chẳng phải là sự kết thúc mà những kẻ áp bức, bóc lột cả “truyền thống” lẫn hiện đại khiếp sợ nhất đó sao? Vì vậy, sự bịa đặt, xuyên tạc, bài bác các lý tưởng cao đẹp của con người nói chung, chủ nghĩa Mác – Lê-nin nói riêng đã thuộc về bản chất của những người có ý thức hệ đối lập, thù địch. Tuy vậy, cứ mỗi lần phải chống lại các trào lưu tư tưởng đối lập thì lại một lần chủ nghĩa Mác – Lê-nin chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình; các tư tưởng tư sản phản động, các loại chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản, chủ nghĩa cơ hội, xét lại, chủ nghĩa vô chính phủ và đủ loại “sắc mầu” khác đều thất bại, nhục nhã ê chề. Những thế lực và những cá nhân xu thời dù có khuấy động, tranh thủ ít nhiều một bộ phận dân chúng, những người mơ hồ, ảo tưởng về một xã hội được trang điểm bằng những nhãn mác “dân chủ”, “công bằng”, “bình đẳng”, ngoài lý tưởng, con đường mà chủ nghĩa Mác – Lênin vạch ra đều vỡ mộng, bị nhân dân lao động từ chối, lên án và lịch sử phủ nhận.


Với linh hồn sống là phép biện chứng duy vật, về lý luận kinh tế là học thuyết giá trị thặng dư và phát kiến vĩ đại về chủ nghĩa duy vật lịch sử mà nội dung cơ bản là học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội cùng với việc chỉ rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,... đã chứng tỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin cho đến nay vẫn là đỉnh cao trí tuệ nhân loại về khoa học xã hội, chưa gì có thể thay thế được. Việc bổ sung, phát triển hoàn thiện của các Đảng Cộng sản là tất yếu, song, không vì thế mà làm mất đi tính khoa học của nó. Với giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức trên toàn thế giới, chủ nghĩa Mác – Lê-nin luôn là vũ khí lý luận sắc bén để đấu tranh tự giải phóng mình; còn với các giai cấp áp bức, bóc lột (nhất là giai cấp tư sản), chủ nghĩa Mác – Lê-nin mãi là nỗi khiếp đảm, sợ hãi nhất. Cho dù, họ cố tình bóp méo, xuyên tạc thế nào chăng nữa, chủ nghĩa Mác – Lê-nin vẫn luôn trường tồn, với sức sống dẻo dai và giá trị bền vững xuyên suốt thời gian, không gian trong xã hội loài người.

Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay

Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Nhận thức về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; về vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát triển. Chủ động, kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Chủ trương, giải pháp trong chiến lược quốc phòng, quân sự, chiến lược an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố, nhất là trên các địa bàn chiến lược quan trọng; sức mạnh về mọi mặt của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được tăng cường. Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hoà bình", hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe doạ an ninh phi truyền thống, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm.


Tuy nhiên, nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc. Kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp uỷ, chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể. Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa hoàn thiện.

Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là : Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm; sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hoà bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.

Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng "thế trận lòng dân", tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan trọng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng; tăng cường nguồn lực, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống. Nâng cao chất lượng công tác dự báo tình hình. Kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, ổn định kinh tế - xã hội trong mọi tình huống. Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hoà bình, hữu nghị; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - Nền tảng tư tưởng, kim chỉ Nam cho hành động của Đảng cộng sản Việt Nam

Thắng lợi của cách mạng nước ta nói chung cũng như sự trưởng thành, lớn mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam gần một thế kỷ qua nói riêng là kết quả tổng hợp của rất nhiều yếu tố. Nhưng có một thực tế không thể phủ nhận, đó là nhờ Đảng ta đã được vũ trang bằng lý luận cách mạng và khoa học: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ cách mạng mới, việc tiếp tục kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam vẫn là một tất yếu khách quan, là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết. Đảng Cộng sản Việt Nam “là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của toàn dân tộc Việt Nam”, đồng thời là một bộ phận của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Đảng, thể hiện lập trường kiên định của Đảng trước những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình, đồng thời là tiêu chuẩn cơ bản phân biệt Đảng Cộng sản với các đảng phái khác. Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng đã khẳng định: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”. Tiếp đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”.  Đến Đại hội XI (1-2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”

Hiện nay bọn cơ hội xét lại và giai cấp tư sản đang tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận các giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng cho rằng “Chủ nghĩa Mác - Lênin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam”. “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng là sai lầm”

Lịch sử phát triển của cách mạng Việt Nam đã khẳng định:

1. Sự vận động, phát triển từ thời cổ đại đến nay của nhân loại và của lịch sử dân tộc Việt Nam là bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại, trong đó có dân tộc Việt Nam.Chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang và mãi mãi dẫn dắt cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng góp phần giải phóng toàn thể nhân loại cần lao, như bất cứ ai không thể không thấy!

2. Hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, Việt Nam chuyển lên tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (từ năm 1954) và trên quy mô cả nước (từ năm 1975). Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, là bằng chứng thực tế đầy thuyết phục chứng tỏ rằng, học thuyết của V.I. Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở lý luận khoa học, cơ sở thực tiễn, phản ánh chính xác những nét lớn, cơ bản của thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và cả hiện nay.

3. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, mang tính bước ngoặt, đặc biệt là những thành tựu của hơn 30 năm đổi mới mà Việt Nam đã đạt được, một phần rất quan trọng là do Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có “Chính sách kinh tế mới” (NEP) của V.I. Lênin trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

4. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trên mặt trận đối ngoại, một phần rất quan trọng là do chúng ta biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhất là trong thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, phát triển bình đẳng, tiến bộ của các quốc gia dân tộc. Xét về bản chất, đường lối đối ngoại trên đây của Việt Nam chính là sự vận dụng sáng tạo của Đảng, Nhà nước ta quan điểm của V.I. Lênin về “cùng tồn tại hòa bình” giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, vào bối cảnh trong nước và quốc tế mới hiện nay.

Từ những phân tích trên đây, có cơ sở để khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh  luôn luôn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Xét cho cùng, toàn bộ công tác lý luận của chúng ta, về thực chất, là nhằm tới mục đích xây dựng một đường lối chính trị độc lập, tự chủ và sáng tạo về lý luận của Đảng để chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Lịch sử Đảng ta hơn 85 năm qua xác nhận: do kiên định và vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó tìm đúng bản chất, quy luật vận động đặc thù của xã hội Việt Nam và xu thế vận động tất yếu của thời đại; đồng thời, đấu tranh một cách kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội…, Đảng ta đã xây dựng thành công một đường lối cách mạng độc lập, tự chủ và sáng tạo để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ở tầm vĩ mô, công tác lý luận đã góp phần quan trọng trong việc kiến giải hàng loạt vấn đề khoa học - thực tiễn rất cơ bản và quan trọng, tiếp tục đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách, tiếp tục phát triển trên con đường xã hội chủ nghĩa, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là những vấn đề về đặc điểm và nội dung của thời đại ngày nay; về mô hình và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; về xây dựng nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước… Tất cả sự nỗ lực đó của công tác lý luận đã trực tiếp góp phần làm cho “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài suốt hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, bước vào thời kỳ phát triển mới ở thế kỷ XXI với thế và lực mới, với một gia tốc mới, như bất cứ ai đều thấy.


Chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang và mãi mãi dẫn dắt cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng góp phần giải phóng toàn thể nhân loại cần lao, như bất cứ ai không thể không thấy!

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...