Các
cuộc biểu tình, bạo động vũ trang, bạo loạn lật đổ hay đảo chính ở một số quốc
gia thuộc Liên Xô trước đây cũng như Đông Âu cuối thế kỷ XX và ở
Trung Đông, Bắc Phi những năm đầu thế kỷ XXI được truyền thông phương Tây khoác
cho cái tên mĩ miều và đầy tính mị dân là “cách mạng sắc màu”. Nhưng
thực chất những cuộc chính biến đó là phản cách mạng. Nhận thức đúng
vấn đề là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách trước mắt và vừa có tính chiến lược lâu
dài.
Bản chất của âm mưu, thủ đoạn “cách mạng màu”
Nếu như các nhà lý luận của giai cấp tư sản tự do
cho rằng cách mạng xã hội là một hiện tượng ngẫu nhiên, thì trái lại, chủ nghĩa
Mác - Lênin chỉ ra rằng các cuộc cách mạng là kết quả tất nhiên của
sự phát triển của các xã hội chia thành giai cấp đối kháng. Các cuộc cách mạng
hoàn thành quá trình tiến hóa, quá trình chín muồi dần dần của những điều kiện
của một chế độ xã hội mới trong lòng chế độ xã hội cũ, hoàn thành quá trình
tích lũy dần dần những mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ. Cách mạng giải quyết
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ, dùng bạo lực phá
hủy quan hệ sản xuất quá thời và mở rộng đường phát triền cho lực lượng sản
xuất.
Cách mạng màu (tiếng Anh là colour revolution) là
thuật ngữ chỉ các cuộc bạo lực chính trị có tổ chức, chính biến phi vũ trang ở
quốc gia có chủ quyền nhằm lật đổ nhà nước đương nhiệm, gây ra khủng hoảng
chính trị, đồng thời lập ra bộ máy cầm quyền mới của lực lượng đối lập được Mỹ
và phương Tây hậu thuẫn. Đó là chiến lược toàn cầu của Mỹ sử dụng những phương
thức, thủ đoạn điển hình là sự phản đối quy mô lớn bằng biện pháp phi bạo lực
nhằm mục đích thay đổi chế độ đang tồn tại để thiết lập một chính phủ thân Mỹ
và phương Tây kể từ thời kỳ hậu chiến tranh lạnh đến nay.
“Cách mạng màu” với nhiều tên gọi khác là cách mạng
nhung, đường phố, cam, hoa hồng, hoa tulip, hạt dẻ,… xuất hiện lần đầu tiên với
cách mạng Vàng ở Philíppin từ năm 1983, cách mạng Nhung ở Tiệp Khắc năm 1989,
cách mạng Đường phố ở Nam Tư năm 2000, cách mạng Nhung ở Grudia năm 2003, cách
mạng Cam ở Ucraina năm 2004 và 2014, cách mạng hoa Tulip ở Cưrơgưxtan năm 2005,
cách mạng cây Tuyết tùng ở Libăng năm 2005, cách mạng Xanh ở Iran năm 2009,
cách mạng hoa Nhài ở Tuynidi từ năm 2010, cách mạng hoa Sen ở Ai Cập từ năm
2011, cách mạng màu ở khu vực Trung Đông - Bắc Phi (còn gọi là Mùa xuân Arập,
gồm: Libi, Xyri, Angiêri, Yêmen, Marốc, Gioócđani, Arậpxêút, Ôman, Irắc), cách
mạng Ô dù ở Hồng Kông năm 2014,… và những diễn biến chính trị tại Thái Lan,
Campuchia, Mianma, Inđônêxia, Vênêxuêla cho thấy bản chất nguy hiểm từ sự can
dự của các thế lực phương Tây vào tình hình nội bộ các nước có chủ quyền, gây
ra bất ổn chính trị kéo dài, ly khai dân tộc nhằm tìm mọi cách thay thế chính
quyền hiện tại.
Một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân sâu
xa của “cách mạng sắc màu” từ hai cách tiếp cận: Thứ nhất, tiếp cận
từ góc độ xung đột lợi ích địa chính trị giữa phương Đông và phương Tây sau
chiến tranh lạnh, “cách mạng sắc màu” là công cụ của phương Tây dùng để củng
cố, mở rộng gia tăng phạm vi ảnh hưởng toàn cầu bằng việc thúc đẩy mô hình
chính trị với các giá trị dân chủ. Thứ
hai, nhấn
mạnh vào các phong trào đối lập lại khá lạc quan khi cho rằng “cách mạng
màu” là quá trình dân chủ hoá. Họ cho rằng “cách mạng sắc màu” phản ánh
khuynh hướng của phe đối lập nhằm đạt được sự đột phá về dân chủ trong bầu cử
chính trị để phê phán các trường hợp gian lận trong bầu cử, từ đó lên án những
hành động phản dân chủ của liên minh cầm quyền. Trong khi đó, một số học giả
cho rằng, “cách mạng sắc màu” là mưu kế then chốt nhằm áp đặt trật tự thế giới
mới do Mỹ đứng đầu. Đây là một chiến thuật chính trị che giấu sự mở rộng của
NATO và ảnh hưởng của Mỹ đến các vùng biên giới của Nga, thậm chí cả Trung
Quốc. Mục tiêu cơ bản trong chiến lược của Mỹ là bao vây Nga và Trung Quốc nhằm
ngăn chặn sự nổi lên của những thách thức đối với quyền lực của Mỹ trong khu
vực và trên toàn cầu
Những cảnh báo đối với việt nam
Trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch coi Việt Nam là trọng điểm
thực hiện “diễn biến hòa bình”, “cách mạng sắc màu” nhằm xóa bỏ chế độ XHCN mà
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn, hướng Việt Nam vào quỹ đạo
của chủ nghĩa tư bản. Chúng luôn tìm cách xuyên tạc, chống phá, bôi nhọ chế độ
ta “mất dân chủ” và kêu gọi muốn có “dân chủ thực sự”, cần thực hiện một cuộc
“cách mạng sắc màu”. Đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm. Bởi vậy, các cuộc
“cách mạng sắc màu” trong thời gian gần đây đã tác động trực tiếp và gián tiếp
đến chính trị, kinh tế, văn hóa - tư tưởng ở nước ta hiện nay.
Về mặt chính trị, các cuộc “cách mạng sắc màu” là nguy cơ hàng đầu,
trực tiếp đe doạ sự tồn vong của chế độ ta. Diễn biến phức tạp của các cuộc
“cách mạng sắc màu” khiến người dân hoang mang, ảnh hưởng gián tiếp đến sự lãnh
đạo của Đảng và con đường xây dựng chế độ XHCN ở nước ta. Là quốc gia có vị trí
địa - chính trị đặc biệt, “có được Việt Nam là có được Đông Nam Á”, Việt Nam
luôn nằm trong danh sách các quốc gia bị chi phối bởi các chính sách của các
nước lớn, với từng mức độ khác nhau, trong đó có Mỹ - phương Tây, Nga và Trung
Quốc. Là một trong số ít quốc gia đang tiếp tục con đường XHCN, Việt Nam luôn
là tâm điểm trong chiến dịch “toàn cầu phản cách mạng” của Mỹ. Con bài “dân
chủ”, “nhân quyền” đã, đang và sẽ tiếp tục được Mỹ sử dụng để can thiệp từng
bước vào nước ta. Chúng lợi dụng hợp tác trên lĩnh vực cải cách chính trị, hành
chính, tư pháp để tác động chuyển hóa chế độ chính trị ở nước ta.
Về mặt kinh tế, bên cạnh những mặt tích cực, không thể phủ nhận những
mặt trái của toàn cầu hóa. Nền kinh tế nước ta còn đang trong giai đoạn đổi mới
nên còn nhiều khó khăn, bất cập, thậm chí nhiều lĩnh vực còn chưa đủ khả năng
tham gia thị trường toàn cầu. Lợi dụng quy định của các tổ chức thương mại, các
thể chế kinh tế, tài chính thế giới nhằm gây sức ép chuyển hóa chủ trương,
đường lối của ta là một trong những thủ đoạn hết sức tinh vi. Các NGOs và TNCs
cũng cùng với dòng chảy hội nhập tham gia mạnh mẽ vào nền kinh tế Việt Nam,
trong đó bao gồm những tổ chức, công ty có sự tài trợ của Mỹ - phương Tây. Đây
là một trong những nguy cơ mà chúng ta cần phải luôn cảnh giác, tỉnh táo.
Về văn hóa - tư tưởng, lợi dụng tính chất phức tạp, nhạy cảm của các
vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền, các thế lực thù địch, phản động chống phá
nước ta bằng cách tạo áp lực từ cả bên trong và bên ngoài. Chúng kích động dư
luận, tuyên truyền mạnh mẽ thông qua các cuộc “cách mạng sắc màu” trên thế giới
nhằm đưa luận điệu “dân chủ thực sự” vào tư tưởng của người dân. Do đó, những
cuộc “cách mạng màu” thời gian qua là một trong những chất xúc tác nguy hiểm để
các thế lực thù địch đẩy mạnh công tác tuyên truyền, lôi kéo vận động người dân
thiếu hiểu biết để tập hợp lực lượng. Cùng với đó, những trào lưu tư tưởng tiêu
cực từ bên ngoài du nhập vào nước ta sẽ tạo nên sự hỗn loạn, mất phương hướng,
chuẩn mực giá trị, đạo đức, văn hóa, lối sống. Đây là một trong những tiền đề
nguy hiểm để chúng lợi dụng truyền bá, hình thành các trào lưu tư tưởng và hệ
thống giá trị đối lập trong xã hội ta.
Trên thực tế, mặc dù cái gọi là “cách mạng sắc
màu” chưa được các thế lực thù địch thực hiện thành công ở nước ta, nhưng
đã có manh nha với những biểu hiện cụ thể của âm mưu, thủ đoạn này ở Việt Nam
và gây ra những hậu quả nhất định. Những năm vừa qua đã xuất hiện nhiều vụ
việc cho thấy rằng, thế lực thù địch và phản động không
ngừng nuôi âm mưu và sử dụng “chiêu thức” phản cách mạng để tấn
công vào sự nghiệp cách mạng của nước ta. Chúng lợi dụng lòng yêu nước, lợi
dụng mạng xã hội, Internet cùng những hạn chế trong nhận thức, hiểu biết
của một bộ phận không nhỏ quần chúng để xúi giục nhân dân biểu tình. Điển
hình như: lấy danh nghĩa “Hướng về biển, đảo quê hương” để kích
động biểu tình, bạo loạn, phá hoại, bài xích quan hệ ngoại giao Việt
Nam - Trung Quốc (như vụ phản đối giàn khoan HD-981 của Trung Quốc
xâm phạm chủ quyền Việt Nam năm 2014 để tiến hành cái gọi là “cách mạng hoa
sen”; vụ Formosa gây ra ô nhiễm môi trường biển khiến cá chết hàng loạt ở 4
tỉnh miền Trung để thực hiện cái gọi là “cách mạng cá” năm 2016); lấy danh
nghĩa bảo vệ môi trường để thực hiện cái gọi là “cách mạng cây”; kêu gọi “xuống
đường tổng biểu tình” năm 2018 tại 23 tỉnh, thành phố liên quan đến
việc Quốc hội nước ta chuẩn bị thông qua và ban hành Luật An ninh mạng và Dự
thảo Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt...
Một số giải pháp phòng, chống
Đảng ta đã xác định, “diễn biến hòa bình” là một trong bốn nguy cơ
chúng ta cần giải quyết. Đại hội XII xác định, cần “chủ động đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản
bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn
xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phitruyền
thống; đảm bảo an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”
Theo đó, để ngăn chặn và triệt tiêu những nguy cơ của của cái gọi
là “cách mạng sắc màu”, chúng ta cần phải “bắt đầu” từ những yếu tố
chủ quan, bao gồm tình hình kinh tế - chính trị - xã hội nội tại. Trong đó, tập
trung vào các giải pháp cơ bản sau:
Một là, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực xã hội; chống
nguy cơ tụt hậu về kinh tế; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, giải quyết tốt các vấn đề xã
hội… để củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước
và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Muốn ngăn chặn, đấu tranh có hiệu quả - làm thất bại các
âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch, phản động đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta
thì phải giữ vững được sự ổn định xã hội và làm cho đất nước ngày
càng vững mạnh về mọi mặt. Do đó, việc đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu
cực xã hội; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực; chống nguy
cơ tụt hậu về kinh tế là giải pháp hữu hiệu để đảm bảo và thúc đẩy
yếu tố bên trong của đất nước luôn luôn ổn định.
Để giữ được sự ổn định xã hội thì vấn đề mấu chốt phải giữ vững
được định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực. Thực chất làm cho các nhân
tố xã hội chủ nghĩa ngày càng củng cố, phát triển trong quá trình quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế đồng nghĩa với tránh
nguy cơ đời sống nhân dân lao động suy giảm, dẫn đến lòng dân hoang
mang, mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước.
Hai là, nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, nắm chắc mọi diễn biến không để bị động và bất ngờ.
Chủ động nắm bắt, phát hiện kịp thời những âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước
ta có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Yêu cầu đặt ra là phải giáo dục rộng rãi
trong toàn xã hội để mọi người dân, mọi tổ chức chính trị - xã hội đều nhận
thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hoà bình” thông qua
cái gọi là “cách mạng sắc màu” của các thế lực phản động. Đảng, Nhà nước
tăng cường chỉ đạo cơ quan tham mưu chuyên trách phối hợp các ngành, các cấp
trong xã hội chú trọng giáo dục kiến thức quốc phòng - an ninh; thông qua các
kênh thông tin đại chúng để nâng cao cảnh giác cách mạng cho mọi tầng lớp nhân
dân. Nghiêm khắc đấu tranh phê phán những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh
giác trong một bộ phận nhân dân, học sinh, sinh viên trước âm mưu, thủ đoạn
thâm hiểm trong chiến lược “diễn biến hoà bình” chống phá nước ta của kẻ
thù.
Không ai khác và hơn ai hết, mỗi cá nhân phải có ý thức tự giác
chấp hành pháp luật của Nhà nước về
thông tin, tham gia tích cực đấu tranh chống phao tin đồn nhảm, lưu truyền
thông tin xấu và thất thiệt.
Ba là, xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
cho toàn dân.
Bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân. Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến
phức tạp, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng từ bỏ
âm mưu thôn tính chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, trong khi
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, mỗi công dân Việt Nam
phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách
mạng. Ý thức bảo vệ Tổ quốc cần được thấm nhuần sâu sắc
trong mọi tầng lớp nhân dân mà trọng tâm là thanh niên.
Yêu cầu nội dung giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
cho các tầng lớp nhân dân phải mang tính toàn diện: tình yêu quê
hương, đất nước; cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của
kẻ thù; thấm nhuần quan điểm, đường lối của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới; tất cả vì mục
tiêu độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Vận dụng các hình
thức biện pháp giáo dục đa dạng nhưng phù hợp với từng đối tượng.
Bốn là, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh về mọi mặt.
Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh là “thành
trì” bảo đảm cho chế độ xã hội luôn ổn định, phát triển. Trước hết, phải
luôn luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh. Khối đại
đoàn kết toàn dân tộc theo quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam là đoàn kết các
dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế, mọi
giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng mọi miền đất nước; đoàn kết trong Đảng và ngoài
Đảng... Để đạt được sự đoàn kết rộng rãi đó, Đảng và Nhà nước phải nâng
cao chất lượng các chính sách xã hội nhằm bảo đảm lợi ích chính
đáng cho từng giai tầng; củng cố vững chắc khối liên minh công - nông
- trí; phát huy tinh thần yêu nước, ý thức tự lực tự cường, lòng tự hào của
toàn dân. Đồng thời, Đảng và Nhà nước phải luôn luôn chú trọng
xây dựng, củng cố hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương ngày
càng vững mạnh về mọi mặt; nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất,
đạo đức, lối sống của đảng viên, năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp,
nhất là ở cơ sở; thực hiện tốt quy chế và pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, củng cố
nâng cao chất lượng, hiệu quả, nề nếp hoạt động của các tổ chức quần chúng.
Năm là, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh.
Không ngừng chú trọng xây dựng quân đội nhân dân, công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại (có lực lượng tiến
thẳng lên hiện đại), xây dựng vững mạnh lực lượng dân quân tự vệ, lực
lượng dự bị động viên, lực lượng an ninh nhân dân ở cơ sở... Đây vừa là lực
lượng trực tiếp vừa là một bộ phận của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam, do Đảng lãnh đạo, là công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, chính quyền, nhân dân,
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ. Cùng với lực lượng chính quy có sức chiến đấu cao, phải bảo đảm
vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, phòng thủ ở các địa phương, cơ
sở. Chú trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng,
lấy chất lượng là chính.
Mỗi địa phương phải chú trọng kết hợp phát động phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở. Thực
tiễn cho thấy, quần chúng nhân dân là nền tảng của
đất nước, là gốc rễ của dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát
triển của xã hội, nhưng cũng là đối tượng mà các thế lực thù
địch, phản động thường hướng tới để lợi dụng, lôi kéo nhằm thực hiện âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách
mạng./.
Chúng ta phải nâng cao cảnh giác và đấu tranh chống lại âm mưu của các thế lực thù địch, phản động
Trả lờiXóa