Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến
các hoạt động tôn giáo và ban hành những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều
kiện cho các tôn giáo hoạt động đúng tôn chỉ mục đích và Hiến pháp, pháp luật.
Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn
giáo của người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn
giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật. Những
quan điểm nhất quán này đã được ghi nhận trong Hiến pháp, kể từ Hiến pháp năm
1946 đến Hiến pháp 2013.
1. Trong các văn kiện của Đảng luôn nhất quán quan điểm: Tín ngưỡng, tôn
giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Đồng bào
các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật.
Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam (bổ sung, phát triển 2011) - một văn kiện có giá trị pháp lý
cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng ghi rõ: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng,
tôn giáo của Nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối
với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn
giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân”.
Trong các văn bản riêng về tôn giáo, tín ngưỡng có thể
xem Nghị định số 69/NĐ-HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam "Quy định về các hoạt động tôn giáo" là văn
bản mở đầu. Ngày 4/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 37-CP quy định nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tôn giáo của Chính phủ, cơ quan có chức
năng quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước. Sau đó, một
loạt văn bản khác đã được ban hành như: Nghị định 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999
của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo, Quyết định số 125/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, ngày 18/6/2003 về việc phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (Khoá IX) về công tác tôn giáo…
Ngày 16/10/1990, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
VI ban hành Nghị quyết số 24/NQ-TW về tăng cường công tác tôn giáo trong tình
hình mới. Đây được coi là dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt phát triển nhận thức về
tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết này có hai luận điểm mang
"tính đột phá" là: Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận Nhân dân và tôn giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với chế độ
mới. Ngày 12/3/2004, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về
công tác tôn giáo. Đến nay, Nghị quyết này vẫn được xem là “kim chỉ nam” cho
công tác tôn giáo và đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Nghị quyết 25-NQ/TW khẳng định
những chủ trương nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tôn giáo. Nghị
quyết khẳng định tín ngưỡng và tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
Nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt
Nam. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng và
Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật được bảo đảm. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại
gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn
giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo
hộ. Việc mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sắc và giữ gìn,
sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp
luật được tạo điều kiện thuận lợi. Nghị quyết cũng chỉ rõ việc theo đạo, truyền
đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;
không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan,
không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo và các
cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật
v.v…
2. Một dấu mốc quan trọng phải kể tới nữa, đó là ngày 18/6/2004, Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo. Tiếp tục thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với
tôn giáo, Luật Tín ngưỡng tôn giáo được Quốc hội khóa XIV nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 2 ngày 18/11/2016 và được Chủ tịch
nước ký Lệnh số: 12/2016/L-CTN ngày 01/12/2016 công bố Luật Tín ngưỡng, tôn
giáo. Việc ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là sự cụ thể hóa quan điểm và chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo, thể hiện nhất quán chủ trương
tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
cũng cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền
công dân liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Những nội
dung mới của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng được bổ sung để tạo sự tương thích
với luật pháp quốc tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng với quốc tế, ký
kết và thi hành nhiều hiệp định.
Từ những chủ trương nhất quán này, Nhà nước Việt Nam đã
ban hành nhiều chính sách nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người
dân. Tất cả những quyền của người dân về tôn giáo đều được Nhà nước Việt Nam
quy định rõ từ việc quản đạo, hành đạo, truyền đạo… Nơi thờ tự của các tôn giáo
được luật pháp Việt Nam bảo vệ. Tất nhiên, pháp luật Việt Nam cũng quy định việc
thành lập tổ chức tôn giáo phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép;
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải đúng quy định của pháp luật, phù hợp với đạo
đức, văn hóa và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, Nhà nước Việt
Nam thực hiện quyền quản lý xã hội của mình trên lãnh thổ Việt Nam ở tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Để quản lý Nhà nước
về tôn giáo thật sự có hiệu quả, phát huy tác dụng, tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, đương
nhiên Nhà nước Việt Nam phải áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn các hành vi
vi phạm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và đặc biệt là các
hành động lợi dụng tôn giáo vì các mục đích khác nhau trái với Hiến pháp và
pháp luật Việt Nam.
3. Ở Việt Nam hiện
nay, những ngày lễ lớn của các tôn giáo, nhất là lễ Phật đản, Vu Lan, Noel …
không chỉ là của những người theo các tôn giáo mà trở thành ngày vui chung,
ngày hội lớn của người dân. Có lẽ vì vậy mà trong những năm qua, số tín đồ của
các tôn giáo ngày một tăng lên không ngừng, nhiều tôn giáo, hệ phái tôn giáo mới
đã được Nhà nước Việt Nam tạo mọi điều kiện cấp phép hoạt động. Các tổ chức tôn
giáo hoạt động đúng pháp luật, đúng tôn chỉ, mục đích luôn được Nhà nước và cấp
chính quyền quan tâm, tôn trọng và tạo điều kiện hoạt động, phát triển.
Quyền con người, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam được bảo
đảm ngày một tốt hơn; các tôn giáo đã phát triển nhanh cả về số lượng tín đồ và
cơ sở thờ tự. Nếu như năm 2006, cả nước mới có 6 tôn giáo và 16 tổ chức tôn
giáo được công nhận và đăng ký hoạt động, thì đến nay đã có 38 tổ chức thuộc 16
tôn giáo khác nhau được công nhận (số liệu đến tháng 6/2020). Cả nước có khoảng
trên 25 triệu tín đồ, trên 110 nghìn chức sắc, nhà tu hành (số liệu đến hết năm
2019). Các cơ sở thờ tự của các tôn giáo ngày càng được xây dựng khang trang
cùng nhiều cơ sở xã hội, từ thiện đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện
công tác xã hội. Các cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo với đủ các cấp học, như: Học
viện Phật giáo, Chủng viện Thiên chúa giáo và các trường cao đẳng, trung cấp của
các tôn giáo đã và đang hoạt động với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa
phương. Các ấn phẩm về tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong in ấn
và phát hành.
Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo, tín
ngưỡng được tổ chức. Trong hàng giáo phẩm của các tôn giáo hiện nay, rất nhiều
vị được Nhà nước tạo điều kiện để đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước trên thế giới.
Nhiều lễ hội tôn giáo lớn ở Việt Nam đã được tổ chức như Đại lễ Phật đản Liên hợp
quốc vào các năm 2008, 2014; Lễ Bế mạc Năm Thánh 2011 của Giáo hội Công giáo Việt
Nam được tổ chức long trọng tại giáo xứ La Vang, tỉnh Quảng Trị; Đại lễ kỷ niệm
72 năm khai sáng đạo Phật giáo Hòa hảo; Đại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội
Phật giáo Việt Nam và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh; Hội nghị Thượng đỉnh Phật
giáo thế giới vào năm 2010 v.v… Kể từ năm 2011, Vatican đã cử đại diện không
thường trú tại Việt Nam và đặc phái viên không thường trú này đã thực hiện nhiều
chuyến thăm tới hầu hết các tỉnh thành ở Việt Nam.
Có thể nói, hòa chung với sự hội nhập quốc tế sâu rộng và
sự phát triển mọi mặt của đất nước, hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ngày càng sôi
động, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo
ngày càng cởi mở hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động tôn giáo./.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóaViệt Nam rất tôn trọng tự do tôn giáo
Trả lờiXóa