Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta có
nhiều cuộc chiến chống xâm lược được ghi vào sử sách và hàng năm đều được nhắc
đến thông qua các hoạt động kỷ niệm. Song, có một cuộc chiến xảy ra cách đây 40
năm trên dải biên cương phía Bắc Tổ quốc chống quân Trung Quốc xâm lược thì gần
như ngược lại, ít được nhắc tới.
5 giờ sáng ngày 17/2/1979, khoảng 120.000 quân Trung Quốc tiến
đánh Việt Nam trên toàn tuyến biên giới (khi đó là 6 tỉnh: Hoàng Liên Sơn, Hà
Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu và Quảng Ninh); mở đầu là pháo, tiếp theo
là xe tăng và bộ binh. Quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng, Lạng
Sơn. Quân đoàn 41A tiến vào Cao Bằng và Đông Khê. Ngoài ra còn có quân đoàn 55A
tiến từ Phòng Thành vào Móng Cái.
Họ dùng chiến thuật
biển người và rất tự tin có thể “sáng ăn cơm Bắc Kinh, chiều ăn cơm Hà Nội, tối
ăn cơm Sài Gòn”, thế nhưng họ đã lầm, đã đánh giá quá thấp tinh thần và lực
lượng của ta và kết quả là Trung Quốc mới là kẻ phải học ta những bài học xương
máu.
Binh pháp Tôn Tử viết:
“Người giỏi dùng binh cần tránh nhuệ khí của địch, khi địch uể oải, mệt mỏi thì
tấn công chúng. Đó là phương pháp đối phó với khí thế của địch, hay quân nghiêm
chỉnh của ta đối phó với quân hỗn loạn của địch, lấy quân trấn tĩnh của ta đối
phó với quân ồn ào của địch, lấy quân nhàn nhã của ta đối phó với quán mệt mỏi
của địch, dùng phương pháp tiếp cận chiến trường của ta để đối phó với sự di
chuyển từ xa tới của địch, lấy quân no đủ của ta mà đối phó vối quân đói khát
của địch. Không nên đón đánh quân địch có đội hình chặt chẽ, không nên tiến
công quân địch có thế trận nghiêm chỉnh…”
Binh Pháp là do người
tàu viết ra, thế nhưng chính họ lại không chịu học tiền nhân của họ và chúng ta
thì “biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”. Những ngày đầu, Trung Quốc thế
như chẻ tre, và họ bắt đầu ảo tưởng sức mạnh, trước khi bị chúng ta phản kích
và tiêu diệt. Báo Quân đội Nhân dân tháng 4 năm 1979 ước lượng tổng thương vong
của quân Trung Quốc là 62.500 người. Họ tháo chạy về nước mà chẳng dạy cho Việt
Nam bài học nào ngoài việc quân Trung Quốc thảm sát nhân dân ta ở các tỉnh biên
giới phía bắc, phá hoại nghiêm trọng cơ sở hạ tầng…
1. NGUYÊN NHÂN:
Trung Quốc cay cú vì
Việt Nam hợp tác toàn diện, là đồng minh của Liên Xô, mà Xô - Trung thì cơm
không lành, canh không ngọt; chúng ta từ chối thẳng thừng việc ký hiệp ước
chống Liên Xô.
Trung Quốc cay cú vì
quân đội ta đánh tan Pôn Pốt, lực lượng tàn ác, diệt chủng do Trung Quốc nuôi
dưỡng. Trung Quốc đã dùng kế “vây ngụy để cứu Triệu”, đánh Việt Nam để bắt buộc
quân chủ lực của chúng ta ở Campuchia phải quay về ứng cứu (kế này ngày xưa Tôn
Tẫn dùng để đánh bại và sát hại Bàng Quyên ở gò Mã Lăng, thời chiến Quốc bên
tàu); với mong muốn tạo điều kiện cho Pôn Pốt trỗi đầu dậy khi đại quân ta rút.
Trung Quốc chưa bao
giờ muốn chúng ta thống nhất; họ chỉ muốn Miền Bắc nước ta là nơi làm phên dậu
cho họ như kiểu Triều Tiên, phụ thuộc vào họ chứ chẳng hề muốn một nước Việt
Nam thống nhất, hùng mạnh. Họ đánh ta để làm suy yếu sức ta và nhầm tưởng rằng
quân đội chủ lực ta đang ở Campuchia thì chúng ta dễ dàng bị thôn tính.
Thời kỳ này đất nước
Trung Quốc đang cần đổi mới, họ bắt tay với Mỹ để phát triển kinh tế và họ
chứng minh cho Mỹ thấy thiện chí của họ đối với Mỹ, họ đánh đất nước vừa khuất
phục người Mỹ để thỏa lòng Mỹ.
2. TRUNG QUỐC TỪ KẺ ĐÒI ĐI DẠY HỌC VÀ CUỐI CÙNG TRỞ
THÀNH HỌC TRÒ “TIỂU HỌC” TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM!
Trung quốc với lợi thế
về người và số lượng vũ khí, khí tài hung hăng tiến sang như muốn ăn tươi nuốt
sống chúng ta nhưng kinh nghiệm chiến đấu thì chỉ là con đom đóm nếu so với ánh
trăng rằm Đại Việt Nam. Chúng ta vừa khuất phục người Pháp, Mỹ, kinh nghiệm
chiến tranh nhân dân đã ăn vào máu người dân; Quân ta chủ yếu là bộ đội địa
phương và dân quân du kích đã nướng chín hơn 62.500 quân tàu. Buộc chúng phải
rút về nước khi cụ Tôn Đức Thắng vừa ra lệnh tổng động viên và đại quân ta đang
tiến về nước từ Campuchia. Nếu chậm trễ trong việc rút quân thì có lẽ chặt hết
cây trên núi Thái Sơn cũng không đủ làm quan tài chôn quân bành trướng vì họ
không phải là đối thủ của Bộ đội chủ lực chúng ta, những người lính thiện chiến
nhất thế giới thời kỳ đó.
Không quân Trung Quốc
không dám xuất kích vì họ hiểu rõ J16, J17 không phải là đối thủ của Mic21,
Sam2, Sam3. Họ hiểu rằng nếu mang không quân xâm lược Việt Nam thì quy mô chiến
tranh sẽ lớn lên; họ không muốn sa lầy rồi chết thảm như Pháp, Hoa Kỳ. Họ khiếp
sợ lưới lửa phòng không ở miền Bắc, nơi đã từng biến niềm tự hào của không lực
Hoa Kỳ thành đồ nhôm.
Từ kẻ đòi “dạy cho
Việt Nam bài học”, Trung Quốc trở thành “người học trò” trước lực lượng chủ đạo
là dân quân du kích gồm các cụ, các mẹ, các chị và bộ đội địa phương. Họ bị
chặn đánh không kịp thở, quân đội thì ô hợp, thiếu kinh nghiệm chiến đấu; vũ
khí tuy nhiều nhưng không hiện đại bằng chúng ta; là kẻ xâm lược, bành trướng
nên quân tàu không có khí chí chiến đấu. Chiến tranh biên giới phía Bắc là nơi
quân tàu bộc lộ nhiều điểm yếu chí tử và họ thất bại là sự tất yếu.
Song hổ giao tranh,
tất hữu nhất thương; chúng ta chiến thắng nhưng các tỉnh biên giới bị tàn phá
nặng nề; chúng ta hy sinh nhiều của, nhiều người và phải mất nhiều năm mới khắc
phục được hậu quả chiến tranh và đến 1991 ta mới bình thường hóa quan hệ với họ.
Chiến tranh là điều không ai muốn vì khi nó xảy ra thì ngọc đá đều tan. Ôn lại
lịch sử chứ không kích động hận thù. Ôn lại để càng thêm yêu quý giá trị của
hòa bình, tri ân cha ông đã hiến máu xương để có ngày hôm nay. Tất nhiên, chủ
quyền quốc gia là bất biến, là bất khả xâm phạm; nếu có bất cứ thế lực nào muốn
xâm lược nước ta thì chắc chắn hào khí Việt Nam lại trỗi dậy và cái kết cho kẻ
xâm lược sẽ đắng như cái cách mà người Pháp, Mỹ, Trung Quốc từng nhận./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét