Vào 3 giờ 30 phút rạng sáng 17-2-1979, quân
Trung Quốc sử dụng pháo binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ của nước
ta, sau đó huy động 600.000 quân, trên 500 xe tăng, xe bọc thép, hàng nghìn khẩu
pháo các loại tấn công toàn tuyến biên giới Việt Nam dài hơn 1.400km.
Số quân Trung Quốc tham chiến lúc đó được
cho nhiều hơn các đạo quân xâm lược Việt Nam trong lịch sử. Thời điểm cao nhất,
quân Mỹ huy động trên chiến trường Việt Nam gần 550.000 quân, Pháp 250.000
quân... Hướng tấn công chủ yếu của quân Trung Quốc là Lạng Sơn và Cao Bằng; hướng
quan trọng là Lào Cai (Hoàng Liên Sơn); hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu);
hướng nghi binh, thu hút lực lượng ta là Quảng Ninh và Hà Tuyên.
Không ai có thể tin rằng
một dân tộc vừa phải trải qua 30 năm chiến tranh với thương tích đầy mình lại
đi khiêu khích, rồi xâm lược một nước khác, lại là nước lớn hơn, thậm chí là nước
đã từng ủng hộ và giúp đỡ to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ trước đó, như một số người Trung Quốc nói rằng cuộc chiến tranh chống Việt
Nam của họ chỉ là một “cuộc phản công tự vệ”.
Trước tình cảnh Tổ quốc lâm nguy, thêm một
lần nữa, quân và dân Việt Nam không còn con đường nào khác là buộc phải cầm
súng chiến đấu để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mình. Đây là
thử thách đầy khắc nghiệt với dân tộc Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy
giờ. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân ta, nhất
là ở các tỉnh Việt Bắc và Tây Bắc, một lần nữa đã phát huy cao độ truyền thống
cách mạng, sát cánh cùng các lực lượng vũ trang, kiên quyết chiến đấu, bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Đối mặt với đội quân xâm lăng từ bên kia
biên giới phía Bắc đông tới 60 vạn người cùng hàng nghìn xe tăng và pháo hạng nặng,
Việt Nam vào ngày 17-2-1979 chỉ có lực lượng công an vũ trang, dân quân địa
phương và 7 sư đoàn với tổng số quân khoảng 7 vạn người. Sự chênh lệch về lực
lượng, về vũ khí trang bị là rất lớn.
Thế nhưng, tinh thần chiến đấu của quân và
dân ta là anh dũng vô song. Lực lượng ít hơn đội quân Trung Quốc hàng chục lần
nhưng quân và dân biên giới đã chiến đấu ngoan cường, anh dũng chặn đứng bước
tiến của đội quân đông hơn gấp bội. Những trận chiến đấu bảo vệ từng tấc đất
thiêng liêng khắc sâu vào tâm khảm chúng ta những chiến đấu anh dũng ở Pháo đài
Đồng Đăng (Lạng Sơn); Bát Xát, Mường Khương (Lào Cai); Trà Lĩnh, Trùng Khánh
(Cao Bằng); Pò Hèn (Quảng Ninh)…
Sự đánh trả dũng mãnh bảo vệ biên giới của
quân và dân ta đã gây thiệt hại nặng nề cho quân Trung Quốc. Khoảng 6 vạn quân
Trung Quốc đã bị thương vong cùng hàng trăm tù binh bị bắt sống. Thiệt hại nặng
nề trên chiến trường, bị dư luận thế giới lên án, Trung Quốc buộc phải rút quân
vào ngày 6-3-1979.
Nhìn lại cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới
phía Bắc của Tổ quốc năm 1979, chúng ta một lần nữa thấy rõ sự thật lịch sử:
Nhân dân Việt Nam không bao giờ chịu quỳ gối trước bất kỳ thế lực xâm lược ngoại
bang nào. Nó khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân dân Việt Nam quyết tâm
vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét