Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2024

NVD40 - Lý luận và thực tiễn đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Việt Nam là nước đa tôn giáo, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân ta, các thế lực thù địch thường lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng. Âm mưu, thủ đoạn của chúng không chỉ là chia rẽ nhân dân các vùng, miền, giữa thành thị với nông thôn, đồng bào kinh với đồng bào dân tộc thiểu số, mà còn chia rẽ đồng bào có tôn giáo với đồng bào không tôn giáo, giữa đồng bào các tôn giáo khác nhau.

          Vì thế, theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo góp phần tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, sau khi nước nhà độc lập, trong Phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”.

          Để đoàn kết tôn giáo thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra nguyên tắc cụ thể trong thực hiện. Lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mẫu số chung. Nguyên tắc này dựa trên phương châm “Dân tộc trên hết - Tổ quốc trên hết” và “tất cả do con người, tất cả vì con người”. Lợi ích của từng tôn giáo gắn chặt với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc, muốn đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào trong khối đại đoàn kết dân tộc thì phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Vì đây là lợi ích của cả cộng đồng, trong đó có lợi ích sống còn của các tôn giáo. Không chạm đến đức tin của tôn giáo nói chung và của từng tôn giáo nói riêng. 

          Hồ Chí Minh chú ý nhiều đến việc chỉ ra cái chung, cái thống nhất của các tôn giáo với mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Người viết “Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và Chúa Giêsu đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng”. Đồng thời nhấn mạnh, lòng yêu nước và đức tin tôn giáo không có gì mâu thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ với nhau. Một người dù theo tôn giáo nào thì trước hết người đó phải là công dân, có nghĩa vụ với dân tộc, đất nước. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết, là nguyên tắc cơ bản để có thể đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết chung của dân tộc. Bởi, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tức là tôn trọng nhân dân, tôn trọng nhu cầu tâm linh của một bộ phận nhân dân, tôn trọng một yêu cầu về tự do, dân chủ trong đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội.

          Như vậy, để đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã đưa ra mục tiêu, nguyên tắc và phương pháp cơ bản cần thực hiện trong quá trình làm công tác tôn giáo. Nhờ đó, Người đã thành công trong việc đoàn kết đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh còn là cơ sở nền tảng cho các giáo hội đề ra tôn chỉ, mục đích hành đạo theo hướng gắn bó với dân tộc, như: “Đạo pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” (Phật giáo); “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” (Công giáo); “Sống Phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phụng sự Tổ quốc và dân tộc” (đạo Tin lành); “Nước vinh đạo sáng” (đạo Cao Đài); “chấn hưng nền đạo gắn bó với dân tộc; phù hợp với chính sách và pháp luật của Nhà nước góp phần tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Phật giáo Hòa Hảo), v.v.

          Quan điểm, tư tưởng về đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn: 

          Về lý luận, Hồ Chí Minh chính là Người mở ra khả năng kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và tôn giáo, có thể cùng chung sống một cách hòa bình vì có những điểm chung nhất định và có thể kế thừa được những giá trị tiến bộ của tôn giáo, nhất là ở khía cạnh nhân bản. Tôn trọng tự do tín ngưỡng gắn liền với việc tăng cường tình đoàn kết và hòa hợp dân tộc là phương pháp rất hữu hiệu để giải quyết vấn đề tôn giáo, hướng mọi người vào mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.

          Về thực tiễn, tư tưởng đó là kim chỉ nam để Đảng và Nhà nước ta hoạch định chủ trương, chính sách giải quyết vấn đề tôn giáo một cách đúng đắn trong suốt quá trình cách mạng. Theo quan điểm, tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh, chúng ta đã hướng đồng bào có đạo đi theo cách mạng, không để kẻ thù lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng phục vụ tâm địa xấu xa của chúng. Qua đó, làm cho đồng bào các tôn giáo tin tưởng vào chế độ xã hội mới, gắn kết được đạo với đời, lấy lý tưởng “tốt đời, đẹp đạo” làm mục tiêu hành động.

          Sự thật hiển nhiên là thế, nhưng các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề tự do, tín ngưỡng, dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc, kích động,… hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Họ thường vu cáo Việt Nam đàn áp các tôn giáo. Nhưng sự thật, cũng như các quốc gia có chủ quyền khác, Việt Nam chỉ xử lý những đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Đó chỉ đơn thuần là việc chính quyền đang ngăn chặn các hoạt động đi ngược lại quy định của pháp luật.

          Có thể nói, không một quốc gia đa tôn giáo nào trên thế giới mà các tôn giáo lại sống bình đẳng như ở Việt Nam, một đất nước không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Đó là sự thật! Tự nó bác bỏ mọi sự xuyên tạc, kích động hòng chia rẽ tôn giáo với chính quyền, chia rẽ những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...