Ngày 29/3/2024, trên trang blog
Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Biển Đông: Philippines
mạnh mẽ, Việt Nam cầm chừng”;
trên trang facebook Việt Tân, đối tượng Gia Minh tán phát bài “Trung Quốc gây
hấn với Philippines trên Biên Đông, Việt Nam tuyên bố quan ngại”, gồm các nội
dung xuyên tạc quan điểm của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp trên Biển
Đông; vu cáo chính quyền không có các biện pháp để bảo vệ chủ quyền quốc gia
trên biển; kích động quần chúng nhân dân phản đối đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Thực
tế, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vị trí, vai trò của Biển Đông đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hệ thống quan điểm của Đảng ta về công tác
đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo ngày càng được hoàn thiện, phát triển.
Điều đó được thể hiện rõ nhất qua các văn kiện của mỗi kỳ Đại hội Đảng. Gần đây
nhất, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những quan
điểm cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo trong tình hình mới. Trong
đó, Đảng đã xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn
đề trên biển hiện nay, cụ thể:
Thứ nhất, là “thống
nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không
gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án
ngữ trên con đường hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương; giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản
và các nước trong khu vực. Vùng biển của chúng ta còn là vùng biển “giàu có”
với các tài nguyên, khoáng sản quan trọng như dầu khí, than, sắt, titan,
muối… và hàng triệu tấn thủy sản. Chúng ta có đường bờ biển dài và đẹp, sinh
vật biển phong phú, đa dạng thuận lợi cho phát triển du lịch biển. Đối với hoạt
động an ninh, quốc phòng, biển nước ta như mặt tiền, cửa ngõ quốc gia; biển làm
tăng chiều sâu phòng thủ hướng ra biển, củng cố tuyến phòng thủ bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, là “kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước”. Đây là quan điểm, chủ trương thể hiện định
hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân tập trung triển khai thực
hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ
quốc. Kiên quyết thể hiện quyết tâm dứt khoát, sự đồng thuận cao hơn trong toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân về yêu cầu bảo vệ chủ quyền, lợi ích của đất nước;
kiên quyết giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc, bảo vệ đến cùng lợi ích
quốc gia - dân tộc, với quyết tâm cao nhất. Chúng ta xác định, giải quyết tranh
chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa
bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của ta, đồng thời tôn
trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế.
Thứ ba, là “thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác
và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất
lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi”. Với mục tiêu giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, chúng ta thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Chúng ta không đi với
nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động hay sự lôi kéo của
bất cứ nước lớn nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay các nước
lớn. Bên cạnh đó, chúng ta thực hiện đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp
phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển.
Thứ tư, là “duy
trì hòa bình, an ninh, an toàn tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; giải
quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công
ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982”. Với tư cách là
thành viên của Liên Hợp Quốc, của UNCLOS 1982 cũng như tuyên bố của các
bên về cách ứng xử trên biển Đông (DOC), Việt Nam luôn tuân thủ các quy định
của luật pháp quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng
biện pháp hòa bình, trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau; thông qua đàm
phán, thương lượng, nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích
chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, vì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế. Theo tinh thần đó,
những vấn đề còn đang bất đồng, tranh chấp song phương thì giải quyết song
phương; những vấn đề tranh chấp liên quan đến nhiều bên thì giải quyết đa
phương và phải hết sức công khai, minh bạch giữa các bên có liên quan. Trong
khi nỗ lực xử lý các vấn đề nảy sinh ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, cần
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ những lợi ích chính đáng của ta trên biển
với quyết tâm “Việt Nam quyết không để một tấc đất, tấc biển nào bị xâm phạm”;
kiên trì tìm kiếm một giải pháp lâu dài, bền chặt và yêu cầu các bên liên quan
kiềm chế, không có hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ cam kết giải quyết bằng biện pháp hòa
bình, trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, UNCLOS và 05 nguyên tắc
chung sống hòa bình, tăng cường nỗ lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương về
an ninh biển, nghiên cứu khoa học, chống tội phạm; cùng nhau thực hiện nghiêm
chỉnh DOC, hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử COC để Biển Đông thực sự là
vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tại các vùng biển
không phải là tranh chấp, hoàn toàn thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc
gia ven biển, Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với
quy định của UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng.
Thứ năm, là “kết
hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường
quốc phòng, an ninh, nhất là tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biện khó khăn,
biên giới, hải đảo”. Nghị
quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về
Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045 xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ
biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững
kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Để kinh tế phát triển tương xứng với tiềm năng của
biển, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển, đảo cần phải tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo
hướng giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác xa bờ; thúc đẩy các hoạt động
nuôi trồng, khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ, tái sinh nguồn lợi
hải sản và môi trường biển, nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính hủy
diệt.
Phát
triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển
các ngành công nghiệp năng lượng, công nghiệp hàng hải, đóng tàu, nuôi trồng,
khai thác và chế biến hải sản chất lượng cao. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, xây
dựng các trung tâm kinh tế ven biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát
triển đa dạng các ngành dịch vụ, xuất khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dầu khí,
vận tải biển... Phát triển kinh tế các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thăm
dò, khai thác, nuôi trồng thủy sản gắn với bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế. Xây dựng các chiến lược, quy hoạch, chương trình,
dự án phát triển kinh tế - xã hội trên biển, đảo; tăng cường đầu tư các nguồn
lực và hoạch định cơ chế chính sách trong phòng, chống thiên tai, thảm họa, bảo
vệ môi trường biển.
Thứ sáu, xây
dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh về mọi mặt. Việc
tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý biển, đảo và các hoạt động kinh tế
biển, nhất là lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng, Dân quân tự vệ
biển và lực lượng Kiểm ngư vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
là yêu cầu bức thiết hiện nay, cụ thể như sau:
(i) Hải quân nhân dân Việt Nam là
lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển, giữ vai trò quan trọng trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư
xây dựng theo hướng hiện đại hóa và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt
là lực lượng thường xuyên tuần tra trên biển và chốt giữ các đảo xa bờ.
(ii) Cảnh sát biển Việt Nam là
lực lượng chuyên trách quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên biển, cần được
tiếp tục củng cố, hoàn thiện về tổ chức, biên chế, tăng cường trang bị hiện
đại, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
(iii) Bộ đội Biên phòng cần được
đầu tư đủ trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện cơ động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ, cứu nạn, chống buôn lậu và các tệ nạn xã
hội trên các vùng biển.
(iv) Dân quân tự vệ biển được
xây dựng theo phương châm vững mạnh, rộng khắp, ở đâu có tàu, thuyền, ngư dân
hoạt động và dân cư sinh sống trên đảo thì ở đó có dân quân tự vệ biển; lấy
doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã làm nòng cốt; tổ chức biên chế phù hợp với
đặc điểm của từng địa phương, bảo đảm thành ba tuyến: Ven bờ, lộng, khơi; coi
trọng lực lượng hoạt động trên biển.
(v) Kiểm ngư là lực lượng được
tổ chức chặt chẽ, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, nhằm phát hiện, ngăn chặn
và xử lý các vi phạm của tàu thuyền nước ngoài; hỗ trợ ngư dân, đảm bảo an ninh
trật tự và có vai trò quan trọng trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên các vùng
biển của Tổ quốc.
Thứ bảy, đẩy
mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Thực
hiện tốt nội dung này, các đơn vị Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng đóng quân
ở địa phương ven biển và các đảo cần kết hợp chặt chẽ với địa phương và cơ quan
Tuyên giáo xây dựng kế hoạch, tổ chức bồi dưỡng báo cáo viên, biên soạn, phát
hành tài liệu tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, nhất là cư dân
sinh sống ở ven biển, trên đảo, ngư dân làm ăn trên biển, kiều bào ta ở nước
ngoài.
Đặc
biệt trong bối cảnh bùng nổ thông tin và sự chống phá, xuyên tạc của các thế
lực thù địch, công tác tuyên truyền biển đảo bên cạnh yếu tố chủ động cần phát
huy đa dạng các loại hình tuyên truyền, các kênh tuyên truyền khác nhau; kết
hợp chặt chẽ tuyên truyền trong nước với đối ngoại và tuyên truyền đặc biệt;
kiên quyết đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc, âm mưu lợi dụng vấn
đề Biển Đông để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân và quan hệ hữu nghị, truyền
thống tốt đẹp giữa Việt Nam với các nước láng giềng. Phát huy hơn nữa vai trò
của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc chủ động tuyên truyền
các vấn đề liên quan đến chủ quyền biển đảo.
Tiếp
nối truyền thống và trách nhiệm đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn được Đảng, Nhà nước ta
đặc biệt coi trọng. Mục tiêu mà Đảng ta luôn hướng tới trong giải quyết các
tranh chấp trên vùng biển, đảo là duy trì khu vực Biển Đông ổn định, hòa bình,
hợp tác và phát triển. Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục kiên quyết, kiên trì đấu
tranh giải quyết các tranh chấp theo đúng đường lối, quan điểm, chính sách của
Đảng, Nhà nước dựa trên cơ sở phát huy nội lực và sức mạnh tổng hợp của cả quốc
gia./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét