Biển, đảo Việt Nam là bộ phận lãnh thổ
thiêng liêng của Tổ quốc, cấu thành chủ quyền quốc gia, cửa ngõ giao lưu quốc
tế, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo
vệ đất nước. Đây cũng là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh, là tuyến
phòng thủ phía Đông của đất nước, tạo khoảng không gian quan trọng để kiểm soát
việc tiếp cận lãnh thổ trên đất liền. Hiện nay, biển Việt Nam có diện tích trên
1 triệu km2, chiếm khoảng 29% diện tích của Biển Đông (3,5 triệu km2) và rộng
gấp 3 lần diện tích đất liền (332 nghìn km2). Biển Việt Nam tiếp giáp với vùng
biển của 07 nước: Trung Quốc, Philipines, Malaysia, Brunei, Indonesia,
Campuchia và Thái Lan. Hiện nay, Việt Nam đã đàm phán phân định ranh giới biển
với các quốc gia xung quanh Biển Đông. Nước ta hiện có 28 tỉnh, thành phố giáp
biển, chiều dài bờ biển khoảng trên 3.260 km, từ Móng Cái đến Hà Tiên, gần
3.000 đảo lớn, nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhiều cảng
biển quan trọng, nhiều danh lam thắng cảnh và khu du lịch nổi tiếng. Hầu hết
các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước đều gắn liền với biển, như: du lịch,
dầu khí, thủy sản, giao thông vận tải, công nghiệp tàu thủy... Bởi vậy, an ninh
biển, đảo có tầm quan trọng đặc biệt đối với Việt Nam, tác động to lớn đến sự
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường hòa
bình của đất nước .
Thời gian qua, trên Biển Đông đã và đang
tồn tại các vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền lãnh thổ cần phải giải quyết, đó
là: bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và giải quyết hòa
bình tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa 5 nước 6 bên, gồm Việt
Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philipines, Brunei, Đài Loan (Trung Quốc); phân định
ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982
(UNCLOS 1982) và xác định ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa. Cùng với đó, những nhân tố gây mất ổn định, xâm phạm chủ quyền, an
ninh vùng biển, đảo Việt Nam vẫn đang diễn ra gay gắt; nguy cơ xung đột vũ
trang, tranh chấp trên biển, đảo và thềm lục địa của nước ta vẫn chưa được loại
trừ do đang tồn tại những nhận thức khác nhau về chủ quyền; có những yêu sách
chủ quyền trái với thông lệ và luật pháp quốc tế; áp đặt tư duy chủ quan, nước
lớn trong các hoạt động ở Biển Đông, như: đẩy mạnh việc xây đắp phi pháp các
đảo nhân tạo, cải tạo các đảo đã chiếm đóng trái phép, nỗ lực đơn phương nhằm
thay đổi hiện trạng trên Biển Đông; tăng cường các hoạt động chống phá, mở rộng
vùng hoạt động kinh tế… Những hoạt động này đã và đang đe dọa, làm ảnh hưởng
không chỉ đối với quốc phòng, an ninh của Việt Nam mà cả an ninh, an toàn của
nhiều nước trong khu vực .
Nhận thức rõ nguy cơ, thách thức nói
trên, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động, tích cực giải quyết từng
bước những tồn tại về biên giới lãnh thổ trên biển và đất liền với các nước
liên quan nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố hoà bình,
an ninh khu vực, đồng thời tăng cường thế và lực của đất nước thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã ký nhiều văn bản
với các nước liên quan đến biển, đảo, như: Thoả thuận khai thác chung vùng biển
chồng lấn với Malaysia; Hiệp định phân định vùng biển chồng lấn với Thái Lan và
thực hiện tuần tra chung trên vùng biển chồng lấn; Hiệp định về biên giới trên
bộ và phân định vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; Hiệp định phân định ranh giới thềm
lục địa với Inđônêxia; Hiệp định về biên giới trên bộ với Campuchia...
Bên cạnh đó, Việt Nam đã xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các
hoạt động khai thác, quản lý và bảo tồn các nguồn tài nguyên biển phù hợp với
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982), phục vụ nhiệm vụ
tập trung phát triển kinh tế, thúc đẩy quan hệ kinh tế của Việt Nam với các
nước, nâng tầm vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Cụ thể là: Nghị quyết số
09-NQ/TW ngày 09/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược biển
Việt Nam đến năm 2020. Trên cơ sở đó, ngày 30/5/2007 Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 27-NQ/CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
số 09-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018,
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trên
cơ sở đó, ngày 05/3/2020 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII đã ban hành nghị quyết số 26/NQ-CP Ban hành Kế hoạch tổng thể và kế
hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Để xây dựng nước Việt Nam thực sự trở
thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển; đồng thời tiếp tục nâng cao vị
trí, tầm quan trọng của công tác đảm bảo an ninh biển, đảo, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh một số
quan điểm, chủ trương trong quản lý, đấu tranh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt
Nam trong tình hình mới cần được quán triệt sâu sắc, như sau:
- Thực hiện quản lý, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo cần: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của hệ
thống chính trị kết hợp với sức mạnh của thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng
tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã
hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc” . Xác định sức mạnh
bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sức mạnh tổng hợp quốc gia, của khối đại đoàn kết
toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng, thế trận an ninh nhân
dân, trong đó, sức mạnh quốc phòng, an ninh giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Trên cơ sở nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, lấy khu vực
phòng thủ ven biển làm chỗ dựa, lực lượng Hải quân làm nòng cốt; kết hợp sức
mạnh của mọi ngành, mọi lực lượng hướng biển, vận dụng linh hoạt các hình thức
đấu tranh với tinh thần tự lực là chính để quản lý, bảo vệ chủ quyền, lợi ích
quốc gia trên các vùng biển; sẵn sàng ngăn chặn, đẩy lùi, đánh thắng các hành
động xâm lấn của bất kỳ thế lực nào để bảo vệ biển, đảo.
- Trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển,
đảo cần: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các
tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để
phát triển” 3. Đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo là vấn đề hệ trọng, nhạy
cảm, lâu dài, do đó, quan điểm chung trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo
là “kiên quyết, kiên trì”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “kiên định nguyên tắc
chiến lược, linh hoạt về sách lược”; những gì thuộc về nguyên tắc kiên quyết
giữ; những gì thuộc về độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ kiên quyết không
nhân nhượng, song phải có đối sách phù hợp, giữ vững chủ quyền biển, đảo nhưng
phải ổn định chính trị, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước.
Đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo cần có sự kết hợp sức mạnh trên các mặt
trận: Kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, sự đồng tình, đồng
thuận, đại đoàn kết toàn dân tộc và sử ủng hộ quốc tế. Kết hợp các biện pháp
ngoại giao, pháp lý, thông tin, truyền thông hiệu quả. Chú trọng kiện toàn cơ
quan, đội ngũ, cán bộ làm công tác thực thi pháp luật trên biển, phát huy vai
trò các biện pháp công tác của lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, bộ đội Biên
phòng, Kiểm ngư làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các thành phần kinh tế sản
xuất, khai thác tài nguyên biển. Huy động các nguồn lực từ địa phương và nguồn
lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, trong đó có lực lượng dự
bị động viên và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên
biển .
- Nhận thức đầy đủ, sâu sắc về quản lý,
bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Theo đó, quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sự
tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật của Nhà nước với quá trình
kinh tế - xã hội, các hoạt động trên biển, đảo nhằm duy trì và phát triển các
mối quan hệ, các hoạt động đó trong trật tự, theo đúng định hướng của Nhà nước
trong việc thăm dò, khai thác các tiềm năng của biển, thực thi và bảo vệ chủ
quyền, các quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, hải
đảo và thềm lục địa của quốc gia phù hợp với luật pháp quốc tế và nguyên tắc
ứng xử của khu vực. Quản lý, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển còn là bảo vệ
các quyền của quốc gia về biển phù hợp với luật pháp quốc tế và các hiệp định
mà nước ta đã ký với các nước có liên quan. Đó là quyền của quốc gia về bảo
tồn, quản lý, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên của biển, lòng đất dưới
đáy biển, vùng trời, các đảo và quần đảo gắn liền với mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế biển. Nội dung quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bao gồm:
bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia dân tộc trên
biển, đảo; bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội và văn hóa trên biển, đảo và
vùng ven biển; tăng cường tiềm lực quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, văn hóa, khoa học, giáo dục;
tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trên biển, đảo; đẩy mạnh hoạt động đối
ngoại và hợp tác quốc tế, tạo lập môi trường thuận lợi để phát triển; tăng
cường hoạt động pháp lý trên trường quốc tế tạo cơ sở bảo vệ chủ quyền biển,
đảo bền vững.
- Chúng ta phải khẳng định một lần nữa
rằng biển, đảo chính là phần lãnh thổ quan trọng không thể tách rời của Tổ quốc
Việt Nam. Vì vậy, trách nhiệm của mỗi công dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo
là đặc biệt quan trọng. Mỗi chúng ta cần nắm vững quan điểm của Đảng, có định
hướng lý tưởng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trước hết là giữ vững ý chí,
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với bảo vệ chủ
quyền biển, đảo, không tin, nghe theo, tiếp tay cho những lời tuyên truyền,
xuyên tạc, bịa đặt của các cá nhân, tổ chức, thế lực thù địch lợi dụng vấn đề biển,
đảo để chống phá cách mạng Việt Nam. Hơn thế nữa, mỗi chúng ta cần xây dựng và
phát huy tinh thần sẵn sàng tham gia trực tiếp vào công cuộc bảo vệ, giữ gìn
biển, đảo quê hương. Tham gia tích cực công tác tuyên truyền về quan điểm,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về chủ quyền biển, đảo
Việt Nam. Tăng cường học tập, nghiên cứu phổ biến pháp luật về quản lý, bảo vệ
biển, đảo và phát triển kinh tế biển, đảo bền vững. Tham gia tuyên truyền và
nâng cao nhận thức cho cộng đồng về khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi
trường vùng biển, hải đảo. Quảng bá hình ảnh biển Việt Nam, chung tay xây dựng
thương hiệu biển Việt Nam góp phần nâng cao vị thế quốc gia và hội nhập quốc tế
trong bảo vệ biển, đảo./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét