Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2016

Sáng kiến ảo tưởng của Nguyễn Thị Từ Huy

Sau khi trở thành Tiến sĩ Văn chương, Nguyễn Thị Từ Huy ra nhập đám dân chủ lưu vong ở Pháp. Bắt đầu từ đây, cô ta trong vai trò của một dân chủ có học thức đã có nhiều những bài nói và viết có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Gần đây, cô ta còn kêu gọi thành lập một tổ chức có tên là “liên minh chính trị” ở hải ngoại.

Câu hỏi mà chúng ta đặt ra ở đây là việc làm này nhằm mục đích gì? Phải chăng khi đã có một chút học hàm, học vị, kiến thức về văn chương thì cô ta thể hiện cho tất cả mọi người biết hoặc để quảng bá hình ảnh, tên tuổi của mình với thế giới… Thời gian hoạt động tại pháp và những  kiến thức cpóp nhặt  được ở nước Pháp, cô ta có thể là một cầu nối giữa nước Pháp, thế giới với Việt Nam, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ trên thế giới hiểu sâu hơn về đất nước, con người Việt Nam. Từ đó, có thể lôi kéo được nhiều nhà doanh nghiệp Pháp, thậm chí cả Chính phủ Pháp và các nước phát triển (phương Tây),… đầu tư làm ăn với Việt Nam nhiều hơn. Đây là việc làm thiết thực của một cá nhân nhỏ bé cho quốc gia, dân tộc. Thế mà cô ta không làm, lại làm những việc chống phá Đảng và Nhà nước làm hại đến lợi ích của đất nước Việt Nam.

Thực tiễn lịch sử ở nước ta là minh chứng hùng hồn, sống động nhất để đẩy lui mọi sự chống phá của các thế lực thù địch. Sau khi  giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện bị bao vây, cấm vận. Vậy mà các thế lực thù địch, lực lượng phản động vẫn không thể cản trở bước tiến của dân tộc. Từ năm 1975 đến nay, bọn phản động người Việt Nam lưu vong ở nước ngoài đã thành lập được các tổ chức chính trị: Năm 1982, một liên minh chính trị, gồm: Đảng Việt Tân của Hoàng Cơ Minh (Mỹ), tổ chức Phục Hưng Việt Nam của Trần Văn Sơn - nhà văn Trần Bình Nam (Mỹ) và nhóm Việt Nam Tự Do của Đỗ Thông Minh, Ngô Chí Dũng (Nhật), không được bao lâu liên minh này tan rã. Tiếp theo, đầu thập niên 90, tổ chức Phục Hưng Việt Nam liên minh với tập hợp Dân Chủ Đa Nguyên của Nguyễn Gia Kiểng, nhưng rồi liên minh này cũng nhanh chóng tan rã. Tại sao các liên minh này nhanh chóng tan ra? Câu trả lời chắc hẳn ai cũng biết. Bởi lẽ, các tổ chức này đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam. Nội bộ liên minh thì thường xuyên tranh giành địa vị chủ tịch, phó chủ tịch và vai trò, vị trí của tổ chức mình,… chỉ vì một chức tước hữu danh vô thực. Khi không đạt được mục đích thì các tổ chức trong liên minh sẵn sàng đấu đá, làm mất thanh danh của nhau kết cục là tan rã.


Vậy nên, cái gọi là “liên minh” mà cô ta kêu gọi kia cũng sẽ chung số phận như thế, Cái ““sáng kiến” ấy chỉ là ảo tưởng mà thôi. 

Đạo đức báo chí

Lợi dụng một số cán bộ, phóng viên báo chí bị kỷ luật và một số tờ báo bị đình bản trong thời gian gần đây; trên đài VOA, một số đối tượng cơ hội chống đối chính trị cho rằng, chiến dịch ‘Trảm’ báo chí của Việt Nam không phải là ‘làm sạch báo chí’, mà là khẳng định vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà là nhằm loại bỏ tất cả những tờ báo không biết ‘nghe lời’. Vậy đâu là chân tướng của sự việc?

Nghề làm báo – bên cạnh vinh quang còn là một nghề có trách nhiệm rất nặng nề đối với xã hội, đối với con người cũng như với từng cá nhân trong cộng đồng. Báo chí tạo ra dư luận xã hội, đưa sự kiện, con người ra trước sự nhìn nhận, phán xét của xã hội. Sức mạnh của dư luận xã hội có thể mang lại quyền lực, vinh quang và tương lai phát triển cho tập thể, cá nhân nhưng cũng có thể đặt dấu chấm hết cho một số phận, một sự nghiệp, thậm chí cao hơn nữa là làm tổn hại đến thanh danh, an ninh của cả một đất nước.

Báo chí cách mạng nước ta hình thành và phát triển trên cơ sở phục vụ lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Với tốc độ phát triển mạnh mẽ, tới nay chúng ta đã có hơn 400 cơ quan báo chí với gần 800 ấn phẩm; 67 đài PT- TH cùng số lượng hàng trăm báo điện tử, hàng nghìn trang thông tin điện tử. Ngoài 42.000 người làm việc ở các cơ quan báo chí (trong đó có 23.000 nhân lực là phóng viên, biên tập viên) nhưng có đến gần ½ dân số của đất nước tương tác với thông tin hàng ngày qua mạng internet…

Thực trạng trong thời gian vừa qua dưới tác động của yếu tố kinh tế thị trường đến báo chí rất rõ rệt. Báo chí hoạt động phải có nguồn thu để bù đắp chi phí và nuôi sống nhà báo. Vậy là vì nguồn thu, không ít cơ quan báo chí và nhà báo đã đánh đổi sự thật. Cũng vì lý do thị trường nên không ít cơ quan báo chí xa rời tôn chỉ mục đích, tìm cách đưa tin giật gân câu khách để bán được báo, bán quảng cáo, câu “view”, tìm “like” bất chấp lợi hại của hành động.

Một bộ phận độc giả đang ngày càng mất niềm tin vào báo chí, trong đó báo mạng là điểm nóng. Do vậy, đề cao hoạt động báo chí có đạo đức là chúng ta đang chống lại sự xung đột lợi ích và chống lạm dụng, làm rõ trách nhiệm của báo chí là tìm kiếm sự thật, hạn chế và đẩy lùi những hệ lụy từ việc đăng tải những thông tin bất chấp đạo lý, thuần phong mỹ tục và tình người.

Chính vì vậy việc ‘Làm sạch báo chí’ là một nhu cầu tất yếu để chấn chỉnh hoạt động của một ngành có sức ảnh hưởng to lớn đến nhận thức của xã hội, đến tâm lý, niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng của đảng, nhà nước và nhân dân ta đang tiến hành. Chứ không phải là việc loại bỏ những tờ báo ‘không biết nghe lời’ như quan điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch

Luật Báo chí 2016 có nhiều điều nghiêm cấm hoặc điều chỉnh hành vi nhà báo, cơ quan báo chí; một bộ Quy định về đạo đức người làm báo (có thể là 9 hoặc hơn thế các điều) sẽ được toàn báo giới góp ý, xây dựng và thực hiện sẽ là hành lang để chúng ta lành mạnh hóa hoạt động báo chí. Sau bộ Quy định về đạo đức cho toàn ngành báo chí, từng cơ quan báo chí lại căn cứ thực tế để có những bản Quy tắc hành nghề riêng theo đặc điểm của loại hình báo chí chắc chắn sẽ có tác dụng tích cực cho hoạt động báo chí.

Còn vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đó là điều kiện tiên quyết để Đảng tập hợp sức mạnh của quần chúng nhân dân tiến hành cách mạng, lý luận và thực tiễn lịch sử đã chứng minh rất rõ ràng từ khi Đảng thành lập đã đưa nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân chịu sự bóc lột lầm than, một cổ hai tròng của chế độ thực dân, phong kiến trở thành nước độc lập đầu tiên ở Đông Nam Á và lãnh đạo nhân dân chiến thắng những quân xâm lược hùng mạnh là Nhật, Pháp, Mỹ thống nhất đất nước, xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh như ngày nay. Chỉ có những người chịu kiếp dọa đày dau khổ mới hiểu được những giá trị mà Đảng mang lại cho dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Hiện nay, khi mà trên thế giới nhiều nước như khu vực Trung Đông, Châu Âu còn xảy ra tình trạng khủng bố, xung đột, chiến tranh, bom vẫn rơi, đạn vẫn nổ và máu của người dân vẫn đổ thì ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của đảng mang lại cho dân tộc ta cả một nền hòa bình, nhân dân được tự do đi lại, tự do ngôn luận được học hành, làm ăn xây dựng kinh tế xây dựng cuộc sống. Như vậy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều mà cả thế giới phải công nhận. Còn những sai lầm khuyết điểm, hạn chế của đảng ta đó là những tất yếu của hoạt động thực tiễn, của thời kỳ quá độ nhưng với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật để sửa chữa chỉnh đốn đảng thì việc làm thường xuyên của Đảng, chỉ có những thế lực thù địch mới lợi dụng những vấn đề yếu kém khuyết điểm để xuyên tạc nói xấu nhằm hạ thấp vai trò của đảng từ đó mà chia rẽ Nhân dân với Đảng làm mất sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.


Chính vì vậy nhân dân ta cần phải cảnh giác trước những luận điệu của các thế lực thù địch, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đang tiến hành, Kiên định con đường cách mạng đi tới Chủ nghĩa xã hội, một xu thế của thời đại, mạng lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng mong ước.

Dân chủ - Nhân quyền

“Dân chủ – nhân quyền” vấn đề nhạy cảm và phức tạp, đã và đang trở thành một nội dung then chốt bao trùm lên các hoạt động chống phá Đảng và nhà nước ta của các thế lực thù địch trong và ngoài nước theo phương thức diễn biến hòa bình.

Có thể nói, các thế lực thù địch chưa bao giờ chúng từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng nước ta, mà thủ đoạn cơ bản của chúng, là thông qua hoạt động lợi dụng các vấn đề về dân chủ, về nhân quyền để từng bước vô hiệu hóa và tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chuyển hóa toàn diện chế độ chính trị ở Việt Nam theo quỹ đạo Chủ nghĩa đế quốc và phương Tây. Trong đó đáng chú ý là những âm mưu cụ thể sau đây:

Sử dụng vấn đề nhân quyền như một “công cụ” một “vỏ bọc” để can thiệp, gây sức ép, tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng, thể chế chính trị nhằm vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản ở Việt Nam.

Đây là chủ trương thống nhất của các thế lực thù địch, là cơ sở để chúng lợi dụng tiến hành các biện pháp chống phá toàn diện, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, đồng thời kích thích, hỗ trợ các phần tử lợi dụng tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền chống phá ta. Các thế lực thù địch chúng tìm mọi cách thức đẩy Việt Nam mở rộng các quyền tự do cá nhân,tự do tôn giáo, dân tộc, tự do ngôn luận, bày tỏ chính kiến, yêu cầu ta giảm bớt sự kiểm soát của nhà nước đối với kinh tế, nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam phát triển. Chủ nghĩa đế quốc và các nước thù địch bên ngoài gia tăng sức ép với ta trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao và kinh tế, thương mại, đặc biệt tăng cường lợi dụng chiêu bài “tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền” để răn đe, gây sức ép với hy vọng Việt Nam sẽ từng bước thay đổi tiến tới ủng hộ và đi theo quỹ đạo của Chủ nghĩa đế quốc.

Dùng vấn đề nhân quyền làm “khẩu hiệu, ngọn cờ” để liên kết, tập hợp lực lượng nhằm hình thành các tổ chức, phong trào đối lập với Đảng và nhà nước Việt Nam.

Có thể nói hình thành lực lượng đối lập ở Việt Nam là một mục tiêu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch đối với nước ta để thực hiện âm mưu chuyển hóa, lật đổ chế độ ở Việt Nam trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Để hình thành lực lương đối lập chúng có thể thông qua nhiều hình thức, con đường tác động, núp dưới nhiều chiêu bài khác nhau, song cơ bản nhất, thuận lợi nhất là thông qua chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền bởi nó có thể che đậy được bản chất phản động, dễ lôi kéo, lừa bịp quần chúng và dễ tranh thủ được sự ủng hộ từ bên ngoài.

Lợi dụng vấn đề nhân quyền tác động trên lĩnh vực dân tộc và tôn giáo gây mất ổn định chính trị, tạo cớ can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của ta, gây sức ép buộc Việt Nam phải chấp nhận các yêu sách về vấn đề nhân quyền của Chủ nghĩa đế quốc và phương Tây.

Tôn giáo, dân tộc là một trong những lĩnh vực chính trị xã hội phức tạp và nhạy cảm. Lợi dụng vấn đề quyền con người tác động chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tôn giáo, dân tộc của các thế lực thù địch là một trong những hướng tác động nguy hiểm, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh chính trị, sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước ta hiện nay.

Hiện nay, các lực lượng thù địch nhìn nhận tôn giáo ở Việt Nam như một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam và đang hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả về tinh thần và vật chất, phục vụ cho âm mưu sử dụng tôn giáo làm lực lượng thúc đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hoá” nhằm làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Chính sự hậu thuẫn này là nhân tố kích động số phần tử quá khích trong tôn giáo có thái độ thách đố với chính quyền, như: Chúng có ý đồ thành lập “Uỷ ban liên tôn chống cộng”, lôi kéo tín đồ, tụ tập đông người, xúi giục biểu tình, gây rối dẫn tới bạo loạn để chờ bên ngoài can thiệp.

Triệt để lợi dụng tôn giáo trong nước, nhất là số cực đoan, quá khích trong công giáo, phật giáo Ấn Quang, phật giáo Hoà Hảo,… lợi dụng những diễn biến phức tạp trên thế giới, hoạt động ngày càng quá khích hơn; câu kết với các thế lực thù địch bên ngoài lôi kéo, tập hợp tín đồ để kích động biểu tình, gây rối, tạo cớ cho bên ngoài can thiệp. Sự kiện xảy ra ở giáo xứ Chủ nghĩa đế quốc Yên – Nghệ An là một ví dụ điển hình.

Dùng vấn đề nhân quyền để kích động các hoạt động chống đối Đảng và Nhà nước nhằm tạo ra sự rối loạn, gây mất ổn định chính trị xã hội ở nước ta và khi có thời cơ và điều kiện sẽ đẩy tới hoạt động bạo loạn, lật đổ chế độ xã hội chũ nghĩa Việt Nam.

Thực hiện âm mưu này, các thể lực thù địch lợi dụng triệt để, khai thác những vấn đề tiêu cực, phức tạp trong đời sống xã hội, những yếu kém, bất cập, sơ hở thiếu sót trong việc ban hành và thực hiện các chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền con người, khai thác tâm lý, tâm trạng bất bình, bất mãn của một bộ phận quần chúng nhân dân, cán bộ đảng viên để kích động, lôi kéo quần chúng nhân dân vào các hoạt động chống đối Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt hiện nay, chúng đã và đang lợi dụng, khai thác tình trạng quan liêu, tham nhũng, tình trạng vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân của một bộ phận cán bộ công chức, lợi dụng mâu thuẫn xã hội, lợi dụng những vấn đề phức tạp trong tôn giáo, dân tộc thiểu số, lợi dụng những thiếu sót yếu kém trong việc ban hành và thực hiện các chính sách có liên quan đến các tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên và các chính sách liên quan đến tôn giáo, dân tộc, nông nghiệp, nông thôn…để kích động các hoạt động chống đối dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền.


Tóm lại đám phản loạn dưới danh nghĩa: Đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền chúng sẽ tiếp tục tung ra nhiều luận điệu, thủ đoạn xảo trá để xuyên tạc, kích động gây chia rẽ, hạ uy tín của Đảng, phá hoại đoàn kết nội bộ. Cuộc chiến chống tham nhũng sẽ tiếp tục bị chúng đả kích, xuyên tạc và bôi nhọ. Nhiều tin đồn, luận điệu thất thiệt, giả mà như thật, bịa đặt hoàn toàn với các tình tiết mĩ miều, ly kỳ… sẽ được tung ra trên các diễn đàn phản loạn. Tuyệt nhiên không tin được các thông tin ngoài luồng, bịa đặt kiểu như vậy. Mục đích của chúng là gây rối loạn và càng rối loạn thì đám phản loạn lại càng mừng vui. Do vậy, mỗi người dân, cán bộ, đảng viên, thanh niên, sinh viên… cần nâng cao cảnh giác, miễn dịch với các thông tin độc hại.

Vạch trần luận điệu chống phá Đảng, Nhà nước

Gần đây, một số trang mạng xã hội đăng bài viết “Cớ sao chế độ Cộng sản, dân ai oán khắp nơi” của các thế lực thù địch. Nội dung bài viết đã cố tình suy diễn, bịa đặt, xuyên tạc trắng trợn và phủ nhận công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Đây là một chiêu trò xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, bôi nhọ Đảng Cộng sản Việt Nam, nói xấu lãnh tụ của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là thủ đoạn thâm độc và đê hèn của những kẻ phản bội đất nước.

Chúng ta đều biết: dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta thoát khỏi chế độ thực dân, phong kiến. Thế mà các thế lực thù địch lại xuyên tạc bản chất cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng đưa ra luận điệu “Huynh đệ tương tàn”,… và rằng, chỉ đem lại lợi ích của Đảng và một số người Cộng sản.

Đúng là sự xuyên tạc lố bịch! Song dù có cố tình dùng mọi thủ đoạn thì các thế thực phản động cũng không thể xuyên tạc một sự thật lịch sử: Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng nẫy năm châu, chấn động địa cầu” đánh đuổi hoàn toàn thực dân Pháp khỏi Việt Nam và toàn cõi Đông Dương; Chiến thắng 30-4-1975, đánh đổ chế độ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn và bọn xâm lược Mỹ, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là những dấu son mà mỗi người dân Việt Nam đều ý thức sâu sắc về niềm tự hào dân tộc, là sự nối tiếp lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước hào hùng của ông cha ta. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đổi mới đúng đắn, nhân dân còn đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, được nhiều nước ca ngợi. Ðiều đó chứng tỏ Ðảng Cộng sản Việt Nam không chỉ tài tình trong lãnh đạo toàn dân chống chiến tranh xâm lược, mà còn thật sự xứng đáng là người lãnh đạo xây dựng đất nước trong thời bình, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngay cả khi bối cảnh quốc tế có những biến động khôn lường. Cội nguồn sâu xa nhất của mọi thành tựu mà nhân dân Việt Nam đã đạt được trong những năm qua là nhờ nhân dân tin ở Ðảng, quyết tâm thực hiện, cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương, đường lối của Ðảng. Bằng lao động sáng tạo của mình, nhân dân ta đã biến chủ trương, đường lối của Ðảng thành hiện thực sinh động trong cuộc sống, xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giầu mạnh, văn minh, có vị thế, uy tín trên trường quốc tế. Như vậy, Ðảng Cộng sản Việt Nam không tự “tô màu” để tạo ra vị trí của Ðảng, mà đó là sự ghi nhận một thực tiễn chính trị - xã hội đã được xác lập trong thực tế.


Rõ ràng, chỉ có những kẻ tay sai bán nước, hại dân và các thế lực thù địch mới hồ đồ nói bậy. Những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật không ngoài mục đích bôi nhọ, muốn xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã và đang xây dựng./.

Bài viết chống lại quan điểm chống phá của các thế lực thù địch chống phá Đảng và Nhà nước ta

Trong thời gian gần đây có nhiều bài viết của các phần tử phản động lưu vong ở nước ngoài tuyên truyền chống  phá đảng, Nhà nước ta trên mặt trận tư tưởng, thủ đoạn của chúng chủ yếu dựa vào các chiêu bài như dân chủ dân quyền, chính sách của đảng ta về các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, tự do tín ngưỡng và các vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý nhà nước để  chống phá cách mạng nước ta , cuộc đấu tranh  chống lại các quan điểm sai trái diễn ra ngày càng gay go, quyết liệt. Các thế lực thù địch đã và đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, trá hình. Cùng với các hoạt động phá hoại vào nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước trên các phương diện khác, chúng ra sức sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại, đặc biệt là Internet, các blog để chuyển tải thông tin, quan điểm sai trái, thù địch và móc nối, tổ chức lực lượng chống đối Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Thực tế đã và đang khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin từ khi ra đời đến nay đã thể hiện rõ bản chất khoa học và cách mạng, giá trị và sức sống bền vững của nó. Nhiều chính khách, nhà khoa học ở cả trong và ngoài nước có những bài thuyết trình, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Một số học giả tư sản đã thừa nhận, tinh thần của Các Mác vẫn tỏa sáng và dù muốn hay không người ta vẫn phải dựa vào Chủ nghĩa Mác Lenin mới có thể phân tích đúng chủ nghĩa tư bản đương đại.
   
Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin không những là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Nhìn lại lịch sử dân tộc Việt Nam từ giữa thế kỷ 19 đến nay cho thấy, sở dĩ dân tộc ta giành được những thành quả lớn lao trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước, một mặt vì nhân dân ta giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh tính mạng và của cải của mình, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ; mặt khác là nhờ vào đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị và bản lĩnh lãnh đạo thể hiện ở đường lối, chính sách, ở chiến lược và sách lược trong suốt chiều dài lịch sử  86 năm qua.
   
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ tiếp tục khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa, mà đưa vào Văn kiện này những nội dung mới phù hợp với xu thế lớn của thời đại. Đó là xu thế “hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển”, đồng thời, Cương lĩnh cũng chỉ ra những thách thức đang diễn ra gay gắt trên thế giới và khu vực. Đó là gần đây đã xuất hiện nhiều loại hình chiến tranh mới, rất đa dạng, như chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, chiến tranh ủy nhiệm, can thiệp quân sự từ bên ngoài kết hợp với các hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ từ bên trong,... Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn sẽ tiếp tục diễn ra quyết liệt; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo diễn ra phức tạp, khó lường. Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Những nguy cơ, thách thức mà Đảng ta đã cảnh báo vẫn tồn tại. Các thế lực thù địch cấu kết với bọn phản động trong nước và nước ngoài tăng cường các hoạt động chống phá nước ta bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” với những thủ đoạn, hình thức mới hết sức thâm độc, nguy hiểm.
    
Thời gian gần đây, trên một số trang mạng xã hội, có cá nhân, thậm chí có những người dưới danh nghĩa đảng viên “trung thành” viết và phát tán trên mạng internet “Thư ngỏ” với những hình thức khác nhau, nhiều quan điểm sai trái, phê phán, thậm chí xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng: “Công cuộc đổi mới gần 30 năm… vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc”. Họ “kiến nghị” thay đổi Cương lĩnh của Đảng, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ, đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng. Đây chính là các quan điểm chống phá Đảng và Nhà nước ta, dựa vào những luận điểm xuyên tạc và những sai lầm thiếu sót của Nhà nước ta trong quá trình quản lý Nhà nước để bôi nhọ lãnh đạo Nhà nước, phủ nhận các thành quả sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. Những tủ đoạn đó hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”.
    
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng, chống sa vào chủ nghĩa cá nhân, góp phần làm cho Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh.
    
Nếu ai đó cho rằng, thể chế hiện nay là “độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ, chia rẽ dân tộc” và kiến nghị thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội thì chẳng những họ đã xuyên tạc lịch sử, mà còn là một sai lầm nghiêm trọng về tư tưởng, chính trị. Như chúng ta đều biết,  sở dĩ Việt Nam trụ vững sau sự kiện Liên Xô tan rã, Hoa Kỳ bao vây, cấm vận, đời sống của tuyệt đại đa số nhân dân được cải thiện, chủ quyền quốc gia được giữ vững là nhờ có đường lối chính trị đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về tư tưởng, chính trị, việc một số người kêu gọi thay đổi Cương lĩnh có nghĩa là xóa bỏ mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành một xã hội “…Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; là xóa bỏ chế độ xã hội do “nhân dân làm chủ” với “Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
    
Về đối ngoại và quốc phòng, an ninh, họ kêu gọi xóa bỏ Cương lĩnh cũng có nghĩa là xóa bỏ đường lối “Đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế…”; là xóa bỏ đường lối quốc phòng - an ninh “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Cương lĩnh năm 2011 đã xác định. Nếu đi theo con đường mà một số người kiến nghị: “Chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ”… thì kịch bản và hậu quả sẽ như thế nào? Họ không hề quan tâm đến sự khác biệt về văn hóa, chính trị, kinh tế, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, dân tộc, vùng miền. Bằng văn hóa và lối sống phương Tây, họ đang muốn phủ lên các quốc gia, dân tộc đang phát triển “làn sóng văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây”, buộc mọi người phải thừa nhận rằng, chỉ có văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây mới là hình mẫu chuẩn mực nhất. Sự giáo điều về lý luận ấy đã và đang hợp lý hóa các hành vi bạo lực “đánh trước”, “đánh phủ đầu” nhằm “phòng, chống, ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố để bảo vệ các giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây”, kể cả chiến lược “diễn biến hòa bình”.
    
Sự thật về lòng “trung thành” của những ai đó đã và đang tung ra luận thuyết “dân chủ không biên giới”, “nhân quyền cao hơn chủ quyền” và coi đó là chuẩn mực để thực hiện “chủ nghĩa can thiệp mới” và sẵn sàng đổi trắng thay đen. Trong những năm gần đây chúng ta đã chứng kiến một số thành công của mô hình “thúc đẩy xã hội dân sự” lật đổ chế độ chính trị ở một số quốc gia Đông Âu, Trung Đông,... bằng các cuộc “cách mạng màu”. “cách mạng hoa”, “cách mạng đường phố” bắt nguồn từ các “xã hội dân sự”. Lợi dụng quyền tự do lập hội để lập ra nhiều hội, nhóm không đúng quy định pháp luật, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng, thậm chí trá hình, hoạt động chống Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thử hỏi, nếu họ là những cán bộ, đảng viên “trung thành” thì tại sao có ý kiến khác hoặc trái với đường lối, quan điểm của Đảng lại không trình bày tại các hội nghị nội bộ Chi bộ, Đảng bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng mà lại tùy tiện phát tán tin trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước; đảng viên phải chấp hành Điều lệ Đảng và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
    
Những việc làm trên có thể chứng minh rõ ràng rằng, họ tìm mọi phương cách nhằm kích động những phần tử phản động, bất mãn với Đảng, Nhà nước, chế độ ta; tập hợp, tạo dựng phe cánh, gây “điểm nóng” về xung đột, gây rối loạn tình hình chính trị, xã hội và khi có điều kiện thì xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Việc can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thể hiện ở việc, họ viện dẫn với các màn kịch nhiều hồi, nhiều lớp, với lý do “chăm lo cho xây dựng nền dân chủ, đem lại hạnh phúc cho người dân Việt Nam,...”.
   
Chúng ta hiểu rằng, chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” chỉ là một trong những âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình mà các thế lực thù địch đã và đang áp dụng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế, hai trong nhiều vấn đề then chốt của các học thuyết “dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây cần áp dụng đối với Việt Nam” là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản. Họ sử dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” nhằm mục đích từng bước phá hoại Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, không thừa nhận chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đồng tâm gắng sức xây đắp nên. Họ cũng cố tình xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “thiếu nền dân chủ”, “vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, lấy đó làm cớ để tuyên truyền sai lệch, nhằm kích động những phần tử bất mãn, phản động chống đối Đảng, Nhà nước ta, tiến tới phủ nhận con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
    
Nhân dân Việt Nam đã đi qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại để tự bảo vệ mình, tự giải phóng mình nên càng thấu hiểu thế nào là tự do độc lập, thế nào là toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Vì vậy, đương nhiên, nhân dân Việt Nam sẽ biết nhìn nhận ai là bạn, ai là thù. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo gần 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đời sống của 90 triệu người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện, chính trị - xã hội của đất nước luôn ổn định, cuộc sống thật sự có hòa bình, tự do, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, nhân dân thực sự là chủ nhân của đất nước.
    

Đấu tranh với các quan điểm sai trái, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chúng ta cũng phải xem lại mình, xem lại chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước có chỗ nào không đúng, còn khiếm khuyết cần phải sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện; những nội dung nào thực hiện chưa tốt cần phải chấn chỉnh, thực hiện tốt hơn để giải tỏa bức xúc của nhân dân và cán bộ, những nội dung nào có vấn đề hoặc chưa rõ cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua đó hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Góp phần củng cố và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác Lenin về xây dựng một Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang lai ấm no hạnh phúc cho nhân dân. 

Ảo tưởng về một liên minh chính trị của người Việt ở hải ngoại

Ngày 31/10/2016, đối tượng Nguyễn Thị Từ Huy tán phát tài liệu “cần một liên minh chính trị ở hải ngoại” có nội dung cổ súy cho cái gọi là “đấu tranh dân chủ” và các “tổ chức xã hội dân sự”ở Việt Nam; đồng thời kêu gọi người Việt ở hải ngoại “ thành lập liên minh chính trị ở hải ngoại” để đấu tranh vì “tự do dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam”

Bản tự truyện này là của “Từ Huy”, những chữ nghĩa mà kẻ này viết cho thấy sự tuyệt vọng chung của chính những kẻ lầm đường lạc lối khác. Từ Huy liên tục đặt câu hỏi và tự đưa ra cái kết cay đắng:

CÁI KẾT CHO MỘT LIÊN MINH CHÍNH TRỊ CỦA NGƯỜI VIÊT Ở HẢI NGOẠI

 “Hãy nhìn vào chính chúng ta để nói xem bản thân chúng ta có khả năng thay đổi hay không, bản thân các tổ chức đang tồn tại có khả năng cải cách hay không, và chúng ta có khả năng hình thành các tổ chức mới hay không…?”. Kết quả là không, các tổ chức được cho là “có tý” như liên minh thành lập đảng Việt Tân của Hoàng Cơ Minh (Mỹ), tổ chức Phục Hưng Việt Nam (PHVN) của Trần Văn Sơn, tức Trần Bình Nam (Mỹ), nhóm Việt Nam Tự Do (VNTD) của Đỗ Thông Minh, hoạt động chống Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đều nhận được cái kết “tan rã”.

Hắn hô hào muốn “thành lập được một hoặc một số liên minh chính trị mạnh của người Việt ở hải ngoại, hoạt động được như ‘Liên minh quốc gia vì dân chủ’ của Miến Điện?”. Chúng ta biết rằng, các tổ chức phản động luôn có xu hướng liên kết để tạo ra một liên minh phản động chống lại Nhà nước ta, tuy nhiên những liên minh phản động này sẽ tất yếu tan rã bởi nó đi ngược lại so với lợi ích của cả dân tộc Việt Nam. Đó là chưa kể tới bản chất của các tổ chức phản động này là “dễ dàng hận thù, ganh ghét, chửi bới, vu khống nhau chỉ vì tranh giành một chức tước hữu danh vô thực, địa vị chủ tịch, phó chủ tịch… trong cộng đồng, tổ chức” như hắn nói. Tóm lại, những vị dân chủ này chỉ vì chữ “tiền” sẽ sinh ra đấu đá, tổ chức phản động này muốn nuốt tổ chức phản động kia.
Hắn viết rất nhiều, tâm sự, cảm nghĩ rất nhiều, đưa ra nhiều lý lẽ minh chứng cho sự “loạn”, cho sự “tranh giành” như thừa nhận thực tế những tổ chức phản động này miệng rêu rao nhân nghĩa những bụng lại “vẩn đục”. Hoạt động của các tổ chức phản động, các đối tượng sẽ không mang lại kết quả gì, sẽ không làm ảnh hưởng tới truyền thống yêu nước, thương giống nòi của dân tộc ta. Hắn cũng biết đường nhận thức khi tự nhận ý tưởng của hắn “thật khó lòng trở thành hiện thực trong tình trạng hiện nay”.

Từ Huy ơi, Từ Huy nếu “y” cho rằng: “người Việt Nam, sau nhiều năm sống trong một môi trường tự do, dân chủ vẫn thiếu ý thức cộng đồng, lẫn tinh thần trách nhiệm, vẫn chưa trang bị được cho mình tinh thần tranh luận, biết lắng nghe” thì đó là sai lầm tệ hại về nhận thức. Người Việt ta ở nước ngoài là một bộ phận của dân tộc Việt Nam, họ được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đảm bảo các quyền lợi của công dân. Vậy thì tại sao, họ lại phải có trách nhiệm, ý thức cộng đồng để đi theo các tổ chức phản động, những liên minh gì đó gọi là vì dân chủ để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chứ? Thật nực cười đấy. Nếu mà chỉ muốn danh vọng, chức tước ảo vọng, vì tiền mà đi ngược lại lợi ích dân tộc thì hãy dừng lại ngay, quay đầu là bờ.


Sẽ không thể thành lập được một liên minh chính trị phản động cho những đối tượng người việt lưu vong ở nước ngoài. Sẽ không có một thủ lĩnh phản động mà các vị dân chủ mong muốn. Tất cả chỉ là ảo vọng, là sự tự vỗ về nhau về một con đường sai trái mà các vị theo.

Phát huy vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cấp ủy chỉ huy các cấp trong quán triệt, thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII

Ngày 30/10/2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.

Việc ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII cho thấy quyết tâm rất lớn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thể hiện rõ tính chiến đấu của Đảng ta. Đặc biệt, từ kết quả của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII được thông tin rộng rãi thực sự trở thành luồng sinh khí mới thổi bùng ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng trong hàng triệu cán bộ, đảng viên, đáp lại lòng mong muốn của các tầng lớp nhân dân.
Nhìn một cách tổng thể, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, hơn 86 năm qua Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh.

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử , thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay.

Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng. 

Tuy nhiên Nghị quyết đã thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế, yếu kém, xác định cụ thể nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhất là sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng; đồng thời xác định hệ thống giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà trọng tâm là ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đặc biệt, trong nghị quyết lần này, Trung ương đã thẳng thắn chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Hệ thống các biểu hiện được nêu trong nghị quyết là những căn cứ quan trọng để từng cấp ủy, tổ chức đảng triển khai thực hiện một cách hiệu quả, có chất lượng. Cùng với đó, Trung ương cũng xác định 4 nhóm giải pháp hết sức toàn diện, bảo đảm tính thống nhất, khoa học và có mối quan hệ biện chứng trong triển khai thực hiện.

Vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện ra sao để đem lại hiệu quả thiết thực trong thực tế cuộc sống nhằm đạt được mục tiêu cao nhất đúng như nghị quyết đã xác định: Nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. 

Để đạt được mục tiêu nêu trên phụ thuộc rất lớn vào thái độ, trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên, mà trước hết là người đứng đầu cấp ủy. Bởi vậy, để triển khai hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trước hết cấp ủy từng cấp, trực tiếp là bí thư cấp ủy phải nắm vững những nội dung trọng tâm, cốt yếu được xác định trong nghị quyết, mà hàng đầu là 4 nhóm giải pháp, bao gồm: Công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; cơ chế chính sách; kiểm tra, giám sát kỷ luật Đảng; phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội. Đây là cơ sở, điều kiện, căn cứ để cấp ủy các cấp tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế ở từng địa phương, đơn vị. Trên cơ sở nhận thức đúng, nắm vững nội dung và hệ thống giải pháp để cấp ủy các cấp nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp và thiết thực. Việc xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đòi hỏi mỗi cấp ủy cần xác định rõ từng nội dung, hình thức, bước đi phù hợp, biết lựa chọn vấn đề trọng tâm, tránh dàn trải. Đánh giá đúng thực tế, nhận diện và chỉ rõ những biểu hiện cụ thể ở từng cán bộ, đảng viên để có các giải pháp khắc phục hiệu quả. Đây là một yêu cầu rất cao, đòi hỏi khả năng tư duy, trình độ và trí tuệ của đội ngũ cấp ủy viên, trực tiếp là bí thư cấp ủy. Xây dựng nội dung chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII là nhiệm vụ chính trị, là trách nhiệm của bí thư cấp ủy các cấp.

Quy định 27 nhóm dấu hiệu suy thoái như Nghị quyết 4 lần này thì rất toàn diện. Mỗi đảng viên phải tự soi rọi xem mình có “dính” không, “dính” vào điểm nào để tự điều chỉnh, sửa chữa, khắc phục. Công khai rộng rãi để trong tinh thần đồng chí soi rọi cho nhau, để thấy những biểu hiện mà tự thân mỗi người không nhận thấy và để quần chúng trên cơ sở đó mà giám sát tới từng đảng viên. Cũng trên cơ sở này, tới đây Bộ Chính trị ban hành các chế tài, quy trình xử lý với đảng viên suy thoái.

Nghị quyết 4 khóa XII đề ra 29 nhóm giải pháp chia theo bốn cụm nội dung. Nhưng phân nhỏ ra nữa thì rất, rất nhiều việc phải làm. Tổng quát thì như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và vừa rồi là Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính nói là phải “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”. Như vậy cấp ủy các cấp cần phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc. Tức là phải bóc tách rõ hơn đâu là trách nhiệm của cá nhân, đâu của tập thể, tránh lẫn lộn, cá nhân tranh công, lỗi thì đổ tập thể.

Cấp ủy các cấp phải công khai kết quả kiểm tra, giám sát như cách mà Ủy ban Kiểm tra Trung ương thực hiện lâu nay. Các cấp ủy rà soát ngay, xử lý nghiêm các trường hợp suy thoái, nhất là với người nhà, người thân của cán bộ chủ chốt có nhiều dư luận.

Cấp ủy các cấp cần xác định những việc gì làm ngay được là các cấp, các ngành triển khai, không chờ đợi cấp trên triển khai. Tự phê bình, phê bình phải gắn với kiểm điểm công tác cuối năm. Làm đồng thời các cấp luôn chứ không nên “trên trước dưới sau, trong trước ngoài sau” như khóa XI. Ngoài ra từng cấp, từng đơn vị cần chọn những việc nổi cộm, dư luận quan tâm, bức xúc tập trung tự phê bình, phê bình kết hợp chặt chẽ với kiểm tra, kỷ luật. Như thế sẽ khắc phục tư tưởng bị động, trông chờ xem trên thế nào và gắn thêm công cụ kỷ luật, chế tài để xử lý các việc sai phạm. Đấy chính là chú trọng pháp trị bên cạnh đức trị.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII là phải gắn chặt với việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị là góp phần củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức Đảng và trong toàn Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên và cấp ủy chỉ huy các cấp cần nói ít làm nhiều, không trống giong cờ mở.

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Trải qua hơn 86 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII là điều kiện để xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò là đảng cầm quyền, với niềm tin và sự mong mỏi của nhân dân.


Đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, suốt 72 năm qua, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tỏ rõ là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; thể hiện vai trò xung kích bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng; tham gia xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội. Với trách nhiệm chính trị của mình, mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Quân đội nguyện đem hết tài năng, trí tuệ gương mẫu đi đầu trong triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, góp phần quan trọng xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị; bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng và hạnh phúc của nhân dân.

Điểm mới trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Nhằm tiếp tục thực hiện đồng bộ, có hiệu quả mục tiêu, phương châm và các nhóm giải pháp trong nghị quyết Trung ương 4 khóa XI gắn với thực hiện tốt các nhiệm vụ xây dựng Đảng trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa ban hành Nghị quyết “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Dư luận chung trong Đảng và trong nhân dân vui mừng đón nhận, mong muốn tìm thấy trong nghị quyết mới này nhiều cái mới, cả lời giải thuyết phục cho những điều bức xúc hiện nay.

Điểm mới trước hết được thể hiện ở chủ đề của nghị quyết

Đại hội XII của Đảng quyết định: "Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI".

Đại hội XII cũng quyết định: Trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trong nhiệm kỳ Đại hội XII (2016 - 2020), nhiệm vụ trọng tâm số 1 là: "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ".

Với chủ đề (hay tiêu đề) nêu trên, Nghị quyết Trung ương 4 lần này không những thể hiện một cách nghiêm túc mà còn rất sáng tạo, có tính cập nhật cao đối với hai trọng tâm mà Đại hội XII đã chỉ ra.

Điểm mới thể hiện một cách tập trung trong những nội dung cốt lõi của Nghị quyết

Phát biểu ý kiến bế mạc Hội nghị Trung ương 4, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: Cái mới của lần này là Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Đúng là như vậy. Nghị quyết Trung ương đã nêu lên 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện về "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Và chỉ rõ rằng: Trong các biểu hiện đó, nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói trái, làm trái quan điểm của Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao, không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống còn thể hiện ở chỗ sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, tham quyền lực, bè phái cục bộ, mất đoàn kết, tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn bức xúc của dân.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: "Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc". Nghị quyết Trung ương 4 đã đưa lại cho chúng ta một sự nhận diện khá đầy đủ, sắc nét về thực trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng ta là: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Nhận diện đúng là để qua đó mỗi cá nhân và tổ chức trong Đảng có thể tự soi mình. Có ai nghĩ rằng, lười học tập cũng là biểu hiện của sự suy thoái? Thế mà, trong 18 biểu hiện suy thoái được liệt kê, biểu hiện thứ ba ghi rõ: "Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước". Nhận diện đúng là để suy ngẫm và hành động. Không phải để bi quan hay nhụt chí, mà là để sẵn sàng cho một cuộc chiến đấu mới rất quyết liệt trong thời gian tới, vì sự trong sạch, vững mạnh của Đảng.

Điểm mới thể hiện trong việc xác định các nhóm nhiệm vụ, giải pháp với những điểm nhấn quan trọng

Bốn nhóm nhiệm vụ, giải pháp Nghị quyết Trung ương 4 nêu lên là: về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; về cơ chế, chính sách; về kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội.

Mỗi nhóm nhiệm vụ giải pháp ấy đều có những điểm nhấn quan trọng. Đó là: Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái. Đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, thói ích kỷ, vụ lợi, lợi ích nhóm. Là rà soát, hoàn thiện cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, bảo đảm quyền hạn đến đâu thì trách nhiệm đến đó. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Là thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; công tác cán bộ, công tác kiểm tra; công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên. Là phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị- xã hội, của nhân dân, của báo chí, của công luận; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát"…

Hệ thống các nhóm nhiệm vụ, giải pháp cho thấy quyết tâm cao của Trung ương, người vừa là tác giả của Nghị quyết, vừa là chủ thể thực hiện và lãnh đạo thực hiện nghị quyết.

Điều mong muốn của tất cả chúng ta, trong Đảng cũng như trong nhân dân là Nghị quyết Trung ương 4 sớm được đưa vào cuộc sống một cách toàn diện, đồng bộ, đương nhiên là có trọng tâm trọng điểm. Ai cũng biết: Một việc làm có ích, một đóng góp thiết thực có giá trị hơn nhiều so với những lời nói khoa trương. Một tấm gương sống hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền!

"Muốn Nghị quyết này đi vào cuộc sống, tạo ra chuyển biến rõ rệt thì cả hệ thống chính trị phải vào cuộc. Từng tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ trách nhiệm của mình trước nhân dân, trước Đảng để tự giác thực hiện. Đối với người học viên đào tạo giảng viên KHXHNV cần phải nghiên cứu quán triệt nắm chắc và gương mẫu thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng nhất là nói và làm đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trước hết, mỗi học viên phải nêu cao tính tự phê bình và phê bình, ra sức học tập nâng cao trình độ chuyên ngành, tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách của người giảng viên, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, khắc phục mọi khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ khóa học. Đồng thời, kiến quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện “lười học tập, lười suy nghĩ, ngại nghiên cứu khoa khọc, tự do vô ý thức kỷ luật” đây chính là những biểu hiện của việc suy thoái./.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW4 khóa XI gắn với thực hiện Nghị quyết TW4 khóa XII

Việc học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết TW4 khóa XII là một nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến cuối năm 2016, mà tập trung nhất là những nội dung cơ bản, mới, các giải pháp thực hiện phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực.

Chỉ thị số 01-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ ra nội dung cần tập trung gồm: Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư trình bày; Báo cáo chính trị; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020; Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".

Nội dung Nghị quyết TW4 khóa XII được xây dựng trên cơ sở tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới, có sự kế thừa, bổ sung, phát triển Văn kiện Đại hội XI, của các nghị quyết Hội nghị Trung ương trong nhiệm kỳ và đường lối, quan điểm của Đảng trong các nhiệm kỳ trước đây. Trong đó, những quan điểm cơ bản, tư tưởng chỉ đạo, nội dung cốt lõi, những vấn đề mới, đều hiện diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, cụ thể như sau:

Về đổi mới mô hình tăng trưởng và hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XI, Nghị quyết TW4 khóa XII có những phát triển mới rất rõ nét, nêu rõ hơn định hướng và giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Về lĩnh vực văn hoá – xã hội, Văn kiện đặc biệt chú trọng các nhiệm vụ, giải pháp gắn kết giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ với phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ hiệu quả quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược. Việc xây dựng, phát triển văn hoá con người Việt Nam, Văn kiện lựa chọn, định hướng 7 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó nhấn mạnh và đặt lên hàng đầu là nhiệm vụ xây dựng con người. Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đặc biệt là bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội là một trong những thành tựu nổi bật trong 30 năm đổi mới, Nghị quyết TW4 khóa XII xác định điểm nhấn và cũng là điểm mới, đó là thực hiện hiệu quả hơn trong 5 năm tới vấn đề quản lý phát triển xã hội. 


Về lĩnh vực quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại, Báo cáo chính trị Đại hội XII có nêu: “Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới”. Cụm từ "trong tình hình mới" là điểm mới được nhấn mạnh. Về công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, Báo cáo chỉ ra vấn đề cốt lõi là phải xác định mục tiêu tối thượng là lợi ích quốc gia – dân tộc. Trong khi nhận rõ hợp tác phát triển là xu thế thì đồng thời không mơ hồ chỉ thấy hợp tác một chiều. Hợp tác đồng thời phải đi đôi với đấu tranh, cạnh tranh để bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia; đồng thời đấu tranh, cạnh tranh để hợp tác chứ không dẫn tới đối đầu, bất lợi.

Về chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, so với Nghị quyết Đại hội XI, điểm mới trong Nghị quyết TW4 khóa XII có nêu: "Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân"; "Tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc". Trong định hướng xây dựng các giai tầng trong xã hội, Văn kiện có yêu cầu mới đó là “tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”.

Về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, ngoài một số nhiệm vụ, giải pháp mới, Văn kiện cũng bổ sung phương hướng: “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”. “Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”. Bổ sung nội dung “giám sát” trong phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.

Về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, Văn kiện nêu lên nhiều nhiệm vụ, giải pháp mới, nổi bật là việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý; hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính. 

Về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, Báo cáo chính trị nêu trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm. Ngoài ra, ở phần nhiệm vụ, giải pháp, Văn kiện đề ra 10 nội dung, tất cả đều được bổ sung phát triển trên cơ sở kế thừa từ các văn kiện Đại hội khoá trước.


Những điểm mới nêu trong Nghị quyết TW4 khóa XII phản ánh bước tiến về tư duy lý luận của Đảng và sẽ trở thành những định hướng chính trị quan trọng của mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước trong 5 năm tới. Việc làm rõ những vấn đề mới trong Nghị quyết TW4 khóa XII sẽ giúp cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp trong tỉnh nắm vững một bước nội dung Văn kiện, chuẩn bị cho đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, từ đó góp phần thực hiện đúng đắn, sáng tạo Nghị quyết TW4 khóa XII của Đảng, phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế của tỉnh ta, sớm đưa Nghị quyết TW4 khóa XII của Đảng vào cuộc sống./

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Ngày 30/10/2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.
           Với chủ đề nêu trên, Nghị quyết Trung ương 4 lần này không những thể hiện một cách nghiêm túc mà còn rất sáng tạo, có tính cập nhật cao đối với hai trọng tâm mà Đại hội XII đã chỉ ra. Đại hội XII của Đảng quyết định: “Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI”.
            Đại hội XII cũng quyết định: Trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trong nhiệm kỳ Đại hội XII (2016 - 2020), nhiệm vụ trọng tâm số 1 là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
            Phát biểu ý kiến bế mạc Hội nghị Trung ương 4, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: Cái mới của lần này là Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết Trung ương đã nêu lên 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
          Và chỉ rõ rằng: Trong các biểu hiện đó, nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói trái, làm trái quan điểm của Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao, không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng.
          Sự suy thoái về đạo đức, lối sống còn thể hiện ở chỗ sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, tham quyền lực, bè phái cục bộ, mất đoàn kết, tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn bức xúc của dân.
          Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”
          Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã đưa lại cho chúng ta một sự nhận diện khá đầy đủ, sắc nét về thực trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng ta là: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Nhận diện đúng là để qua đó mỗi cá nhân và tổ chức trong Đảng có thể tự soi mình. Nhận diện đúng là để suy ngẫm và hành động. Không phải để bi quan hay nhụt chí, mà là để sẵn sàng cho một cuộc chiến đấu mới rất quyết liệt trong thời gian tới, vì sự trong sạch, vững mạnh của Đảng.

Nhận diện chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” (DBHB) chống các nước tiến bộ trong đó có các nước XHCN, các thế lực thù địch thường giương chiêu bài “tự do, dân chủ, nhân quyền” làm mũi tiến công lợi hại với rất nhiều thủ đoạn nham hiểm, xảo quyệt. Cần nhận diện một số thủ đoạn chính mà chúng thường dùng

Một là, kết hợp “nội công, ngoại kích”

Ở trong nước, các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, phần tử phản động đội lốt tôn giáo đã lợi dụng quyền tự do dân chủ để chống phá một cách có hệ thống: Từ tư tưởng, tổ chức đến các chủ trương chính sách, pháp luật. Cụ thể, chúng tìm cách bôi nhọ các lãnh tụ, các cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước, nhằm tập trung vào mục tiêu xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng. Kết hợp với mũi “nội công” các thế lực thù địch ở nước ngoài cũng thường xuyên tiến hành “ngoại kích”. Lực lượng này có thể chia làm hai loại chính. Loại thứ nhất là một số người trong bộ máy chế độ cũ sống lưu vong để hoạt động chống lại dân tộc Việt  Nam. Loại thứ hai là các cá nhân tổ chức chính phủ, phi chính phủ ở một số nước phương Tây đã có thành kiến, hằn học về chế độ XHCN ở nước ta.

Hai là, xuyên tạc bóp méo, bịa đặt, vu cáo, bôi đen thực tế xã hội và thực trạng tự do, dân chủ nhân quyền ở Việt Nam.
Mỗi khi cơ quan tư pháp Việt Nam xử lý những người vi phạm pháp luật, như Nguyễn Văn Lý, Lê Thị Công Nhân v.v, thì các thế lực ở trong và ngoài nước lu loa rằng “ Việt Nam vi phạm nhân quyền” . Chúng đánh tráo khái niệm, gọi nhũng kẻ phạm pháp bị xử lý theo pháp luật đó là “ tù nhân chính trị”, “ tù nhân tôn giáo” với ám chỉ rằng: Ở Việt Nam cứ hoạt động tôn giáo, hoặc có “lương tâm” đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền là trở thành “tù nhân”. Đó là sự xuyên tạc vu cáo hết  sức xảo trá, nham hiểm.

Ba là, dùng tiền mua chuộc, kích động sự chống phá ở Việt Nam
Chúng dùng tiền mua chuộc, kích động phong trào dân chủ ở Việt Nam. Trong cái gọi là “Dự luật về nhân quyền Việt Nam năm 2007” (H.R.3096) được Hạ viện Mỹ thông qua ngày 18-9-2007, có dành 4 triệu USD để gọi là “ giúp các tổ chức cải thiện nhân quyền ở Việt Nam”, dành hơn 10 triệu USD cho các hoạt động của đài RFA (châu Á tự do), một đài phát thanh mà “Phần lớn các chương trình hoàn toàn tập trung vào việc gây mất ổn định ở Việt Nam”.


Trước yêu cầu cách mạng trong thời kỳ mới, việc nhận diện các chiêu bài trong “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một trong những vẫn đề hết sức quan trọng nhằm giúp cho mỗi cán bộ đảng viên có nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, trách nhiệm của mình trong thực hiện nhiệm vụ nói riêng và trách nhiệm trong giữ gìn hệ tư tưởng của Đảng, uy tín của Đảng nói chung. Nhận diện đúng âm mưu của các thế lực thù địch là cơ sở để tạo “sức đề kháng” trước những luận điệu xuyên tạc, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của chúng...

Nếu thấm nhuần chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lúc đó con người sẽ nhận thức chính mình, đạt đến trí huệ “buông bỏ”, tiết chế dục vọng tham lam

Nghị quyết 04/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30/10 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.   

Theo đó, Trung ương chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái thuộc 3 nhóm tư tưởng – chính trị, đạo đức – lối sống, và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

Có thể nói, đây là “bộ quy tắc” làm gương soi cho tất cả cán bộ, đảng viên, công chức; nhìn vào 27 biểu hiện thuộc 03 nhóm trên ít ai có thể “miễn dịch” 100%.

Nhưng đó cũng là lúc mà tất cả những người đang hưởng lương từ ngân sách, mang danh phận “công bộc”  làm việc trong những trụ sở nguy nga, lộng lẫy, ngồi trên những chiếc xe tiền tỷ, tiêu xài những đồng tiền mồ hôi nước mắt của nhân dân, cần đối chiếu lại mình với những gì Nghị quyết đã nói.

Nghị quyết chỉ rõ:

“Vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích”.

Trong lịch sử hơn 70 năm thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, chưa bao giờ chứng kiến cảnh nở rộ nhân sự “cây nhà lá vườn” như những năm gần đây, nguy hiểm hơn rất nhiều trong số đó là những chức vụ lãnh đạo thông qua tấm khiên “đúng quy trình” nhưng khi vỡ lẽ thì sai phạm nối tiếp sai phạm.

Bên cạnh việc “tìm người nhà” thì sự bùng nổ biên chế làm cho ngân sách trả lương ngày càng khó khăn, mặc dù công tác nghiên cứu đánh giá và cảnh báo tình trạng thừa biên chế đã được đưa ra từ lâu nhưng tất cả vẫn “nhắm mắt đưa chân” tuyển dụng ào ạt để bây giờ công tác tinh giản gặp muôn vàn khó khăn.

Có phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.

Còn rất nhiều những điều trong Nghị quyết có thể minh họa bằng ví dụ thực tế là những bất cập, tiêu cực còn đầy rẫy trong hoạt động của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhưng tất cả chỉ là bề nổi, có thể khắc phục với quyết tâm của Đảng và Chính phủ với sự giúp sức từ nhân dân.

Nhưng thiết nghĩ, nguy hiểm nhất vẫn là nhạt phai lý tưởng, ngày càng “bỏ quyên” chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bởi vậy, vấn đề “chủ nghĩa”, “tư tưởng” được thể hiện ngay đầu Nghị quyết.

Không gì nguy hiểm hơn khi Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng nhưng một bộ phận không nhỏ đảng viên dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng, nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Việc đọc, hiểu, đi sâu nghiên cứu đã khó, thì làm sao áp dụng phương pháp luận biện chứng và tư duy lôgic theo tinh thần của Chủ nghĩa Mác hay là chúng ta đang nhân danh Mác để phá hoại lý luận?

Bác Hồ từng nói “học tập chủ nghĩa Mác là sống với nhau có lý có tình” toàn bộ ý tứ biện chứng pháp cho nhân sinh đều thể hiện trong câu nói này.

Vì thiếu tư duy biện chứng nên “siêu hình”, “duy tâm” thống trị dẫn đến những sai lầm trong công tác quản lý, đó là những biểu hiện như “thấy cây không thấy rừng”, nóng vội, chủ quan, không nắm vững quy luật vận động khách quan của tự nhiên và xã hội nên có những tác động mù quáng, mò mẫm và thô bạo dẫn đến thất bại.

Vì thiếu tư duy biện chứng, thiếu thực tiễn nên mới “đẻ” ra “lý luận suông” và “thực tiễn mù quáng”, xuất hiện những cá nhân coi quyền lợi của mình cao hơn lợi ích quốc gia dân tộc.

Quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa cũng như đi trên một con đường chưa ai đi qua, điều đó đòi hỏi “người lữ hành” phải thông thạo về con đường mình sẽ đi, hiểu rõ về đoạn đường mình sẽ tới bằng cách nắm vững lý luận.


Dù muốn hay không cũng phải thừa nhận Chủ nghĩa Mác là sản phẩm của văn minh Phương Tây, vậy nên công tác nghiên cứu học tập vô cùng cần thiết, nghiên cứu để rút ra những gì phù hợp với xã hội, con người Việt Nam, gạn lọc những gì không phù hợp để bổ sung hoàn thiện, việc học tập nâng cao trình độ lý luận có ý nghĩa như vậy.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...