Hơn 86 năm qua, dưới sự lãnh
đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính
yêu, nhân dân ta đã vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử thách, làm nên cách mạng
Tháng Tám lịch sử vĩ đại, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam); tiến hành hai cuộc chiến tranh thần
thánh chống quân xâm lược Pháp và Mỹ thắng lợi; thực hiện thống nhất đất nước,
Nam – Bắc xum họp một nhà, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; khởi xướng và lãnh
đạo thành công công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, đưa lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30
năm đổi mới đất nước. Nhờ đó đã nâng tầm cao, uy tín của nước ta trên trường quốc
tế. Trước những thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức, Đảng ta đã tỏ rõ bản
lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng: độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác; được nhân dân tin yêu, thừa nhận, tôn vinh; coi mục tiêu, lý tưởng sống,
chiến đấu của Đảng là mục tiêu, lý tưởng sống, chiến đấu của chính mình.
Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, sự phát triển, trưởng thành của Đảng thể hiện rõ nhất ở việc
chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bão táp, thác ghềnh để tiến
lên. Thách thức nghiêm trọng nhất đối với Đảng ta là thời điểm trước và sau
cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi quân Pháp thực hiện dã tâm quay trở lại Việt
Nam, quyết xâm lược nước ta một lần nữa và lần thứ hai là thời điểm trước và
sau đổi mới toàn diện đất nước năm 1986, đặc biệt là khi chế độ xã hội chủ
nghĩa theo mô hình xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ năm 1991. Đó là
hai thời điểm đáng ghi nhớ nhất của lịch sử cách mạng Việt Nam, là thử thách lớn
nhất đối với bản lĩnh chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Vào các thời
điểm đó, đất nước ta đang trong quá trình chuyển đổi mang tính bước ngoặc, chuẩn
bị các điều kiện để bước vào giai đoạn phát triển mới. Đáng chú ý là vào thời
điểm đặc biệt khó khăn năm 1986, đất nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế
– xã hội trầm trọng: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt, đời sống nhân dân hết
sức khó khăn, thêm vào đó đất nước lại bị bao vây, phong toả, cấm vận bởi các
thế lực thù địch. Tình hình nêu trên đã làm cho những khó khăn, thách thức vốn
đã nhiều lại thêm.chồng chất. Vào thời điểm đó, công cuộc cải tổ, cải cách ở
Liên Xô đã trượt dài trên con đường sai lầm, dẫn đến sụp đổ của chủ nghiã xã hội
ngay sau cuộc chính biến 19/8/1991. Nhân cơ hội đó, các thế lực thù địch đã dáo
diết đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ nhằm chống phá,
gây mất ổn định chính trị – xã hội ở nước ta, tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa và xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước những khó khăn, thử
thách của lịch sử, Đảng ta luôn kiên định, vững vàng, bình tĩnh và tự tin, xác
định đúng đường lối lãnh đạo và đưa ra được những quyết sách sáng tạo, hợp lòng
dân; nhờ đó, đã cùng chiến sĩ, đồng bào cả nước vượt qua khó khăn, thách thức,
đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo của Đảng
ta đã thể hiện rõ sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, phù hợp với đặc điểm
tình hình đất nước và cách mạng Việt Nam kể từ khi còn trứng nước với vài ngàn
cán bộ, đảng viên cho đến khi đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng lên đến hàng
triệu người, hoạt động thống nhất trong cả nước.
Sự ra đời của Đảng là kết quả
của quá trình chuẩn bị lâu dài về tư tưởng, tổ chức và cán bộ của Đảng, đáp ứng
yêu cầu phát triển của tình hình, nhiệm vụ mà phong trào đấu tranh cách mạng của
nước ta đầu thế kỷ XX đặt ra, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, mở ra
kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Đó là cơ sở vững chắc cho những thắng lợi
sau này, ghi đậm thêm những nét son chói lọi trong “lịch sử bằng vàng” của Đảng
và của cách mạng Việt Nam.
Trước những biến đổi sâu sắc
của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, trước yêu cầu, đòi hỏi bức
bách của thực tiễn, nhất là việc phải tháo gỡ những khó khăn, thách thức mà
công cuộc đổi mới xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra, Đảng đã khởi
xướng và lãnh đạo thàng công công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đường lới đổi
mới mà Đại hội VI của Đảng đề ra thể hiện rõ sự năng động, sáng tạo và sự
phát triển tư duy lý luận của Đảng ta trước sự vận động, biến đổi phức tạp
của tình hình. Chính vì vậy, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đưa đến những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thông qua thực tiễn lãnh đạo công cuộc đổi
mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vị trí, vai
trò và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, lựa chọn chính xác hơn hình
thức, bước đi và mô hình chủ nghĩa xã hội cần xây dựng ở Việt Nam cho phù hợp với
đặc điểm tình hình của đất nước và dân tộc. Những quyết sách đúng đắn, sáng tạo
của Đảng ta trong lãnh đạo toàn dân kháng chiến, kiến quốc, bảo vệ Tổ quốc, đổi
mới đất nước là nhân tố quyết định đưa đến những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng
Việt Nam.
Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo
của Đảng còn thể hiện ở việc giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa Đảng và quần
chúng nhân dân; nhờ giải quyết tốt mối quan hệ này mà vai trò lãnh đạo của Đảng
được giữ vững và ngày càng tăng cường. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, nhân dân ta trở thành chủ nhân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
làm chủ về chính trị, kinh tế và làm chủ mọi mặt đời sống xã hội. Nhân dân tham
gia xây dựng và củng cố Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, đóng góp ý kiến xây dựng
cương lĩnh, đường lối của Đảng, góp ý kiến xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
và tổ chức đảng. Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguồn
gốc sức mạnh và là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của mạng Việt Nam.
Vị trí, vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định không chỉ qua thực tiễn đấu tranh cách mạng,
giành độc lập cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội mà còn được khẳng định ở tính đúng đắn, sáng tạo trong tiếp thu, vận dụng
sáng tạo và phát triển lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong điều kiện lịch sử mới. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, các yếu tố này luôn được Đảng ta giữ vững và phát huy trong điều kiện
lịch sử mới, nhờ đó làm cho vai trò lãnh đạo của Đảng càng được xác lập vững chắc,
uy tín, vị thế của Đảng ngày càng được củng cố và nâng cao. Đảng sống trong
lòng dân tộc, là niềm tin, lẽ sống của nhân dân Việt Nam, đại diện trung thành
nhất lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân và dân tộc Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, sự
lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Vai trò của Đảng được xác lập, củng cố, giữ vững gắn liền với tiến trình phát
triển cũng như những thành tựu của cách mạng và tiến bộ xã hội. Tôi tin rằng
trong khó khăn, thử thách, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên kỳ tích chiến
thắng giặc ngoại xâm, thì nay trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lựoi Nghị quyết Đại hội
XII, sẽ chiến thắng giặc nội xâm, sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Đó là niềm tin có cơ sở khoa học vững chắc, là động lực thúc
đẩy sự nghiệp cách mạng Việt Nam tiến lên./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét