Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2017

Giá trị lịch sử của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến"

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) thể hiện trí tuệ, tầm nhìn, bản lĩnh, khát vọng hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam. 71 năm đã đi qua, tác phẩm bất hủ này của Người vẫn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.    

Sau Chiến tranh thế giới thứ II, tình hình quốc tế có nhiều thay đổi. Để đối phó với âm mưu của Mỹ, Liên Xô một mặt phải tập trung phát triển kinh tế, tăng cường khả năng quốc phòng; mặt khác phải giúp đỡ các nước Đông Âu, vành đai phía Tây trong việc củng cố chế độ dân chủ nhân dân, vì thế, vấn đề Việt Nam chưa thể quan tâm. Trung Quốc đang trong tình trạng chấm dứt thời kỳ Quốc - Cộng hợp tác lần thứ hai (1945-1947), nội chiến bùng nổ. Đảng Cộng sản Trung Quốc phải tập trung mọi lực lượng và cố gắng giành thắng lợi trong nội chiến nên chưa có điều kiện giúp đỡ cuộc kháng chiến của Việt Nam. Tình hình các nước trong khu vực như Inđônêxia, Malaixia, Mianma... đều bị các nước thực dân Anh, Hà Lan tái chiếm. Đặc biệt là hai nước láng giềng Lào, Campuchia cũng bị thực dân Pháp chiếm đóng trở lại và dùng làm bàn đạp để bao vây, đánh chiếm Việt Nam. Các vùng biển phía Đông và phía Nam đều bị hạm đội của Anh khống chế. Nhìn chung, tình hình quốc tế trong những năm sau Chiến tranh thế giới thứ 2 có nhiều bất lợi cho Việt Nam. Cách mạng Việt Nam ở trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị cô lập với thế giới bên ngoài. Đó là thử thách hết sức gay gắt đối với Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Về tình hình trong nước, Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Song Nhà nước Việt Nam non trẻ đứng trước những thử thách hiểm nghèo: nền kinh tế vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị Pháp, Nhật vơ vét, làm cho tiêu điều; sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp vốn nhỏ bé lại đình đốn do chiến tranh tàn phá; tiếp quản nền tài chính trống rỗng; hơn 90% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu…  

Các thế lực nội phản chống phá rất quyết liệt. Hàng chục đảng phái chính trị xuất hiện như: Đại Việt quốc dân Đảng, Đảng Phục quốc, Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (Việt Cách), Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) núp dưới chiêu bài "cách mạng triệt để" gieo rắc tư tưởng hoài nghi, kích động các tầng lớp nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Một số phần tử phản động đội lốt tôn giáo lợi dụng thần quyền, sùng đạo của tín đồ để chống phá chính quyền Nhà nước Việt Nam. Chỉ trong 20 ngày sau cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, theo thoả thuận tại Hội nghị Pốtxđam (7-1945), những đội quân của các nước Đồng minh dồn dập kéo vào nước ta. Từ đầu tháng 9-1945, gần 20 vạn quân Tưởng ồ ạt vượt qua biên giới phía Bắc, tràn vào nước ta cho đến vĩ tuyến 16. Với âm mưu "Diệt cộng, cầm Hồ", chúng tiến hành các hoạt động quân sự, chính trị, ra sức quấy nhiễu, phá phách, tuyên truyền, kích động quần chúng, nhằm lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh.

Âm mưu trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Pháp ráo riết chuẩn bị lực lượng quân viễn chinh và triển khai các hoạt động xâm lược. Năm 1943, Pháp đặt phái đoàn quân sự ở Côn Minh (Trung Quốc), tổ chức Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 ở Cancútta và Lữ đoàn cơ động Viễn Đông (BMEO) ở Mađagátxca để chuẩn bị trở lại Việt Nam. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Chính phủ Đờgôn đã cử Đô đốc Đácgiăngliơ sang làm Cao uỷ Pháp ở Đông Dương cùng một đạo quân viễn chinh lớn, với sứ mệnh đầu tiên là khôi phục lại chủ quyền của Pháp trên lãnh thổ Liên bang Đông Dương. Tướng chỉ huy tối cao của các lực lượng quân sự tại Viễn Đông chịu trách nhiệm dưới quyền Cao uỷ “thi hành mọi biện pháp quân sự cần thiết nhằm khôi phục chủ quyền đó". Ngày 2-9-1945, nhân dân ta ở Sài Gòn mít tinh chào mừng ngày độc lập thì quân Pháp đã xả súng làm 47 người chết, nhiều người bị thương. Ngày 6-9-1945, khi quân Anh kéo vào giải giáp quân Nhật, quân Pháp núp sau nổ súng đánh chiếm trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ, mở nhà tù giải thoát cho tù binh Pháp, lôi kéo quân Nhật vào việc chống phá Nhà nước Việt Nam.Rõ ràng, âm mưu của Pháp trở lại xâm lược Việt Nam đã được chuẩn bị kỹ.

Về phía Mỹ, từ lâu đã có ý đồ thay chân Pháp ở Đông Dương. Khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, quan điểm của Mỹ là: "Không trao Đông Dương cho Pháp, mà nó phải đặt dưới sự uỷ trị quốc tế”, nhưng trước sự phát triển dâng cao của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, Mỹ đã thay đổi, mở đường cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Đến cuối tháng 9-1945, nước ta có khoảng 30 vạn quân của các nước, trong đó có 20 vạn quân Tưởng, 6 vạn quân Nhật, 2,6 vạn quân Anh - Ấn, gần 3 vạn quân Pháp. Ngày 23-9-1945, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Chưa bao giờ trên đất nước ta có nhiều kẻ thù hung bạo và xảo quyệt như lúc này. Vận mệnh của Nhà nước Việt Nam non trẻ "như ngàn cân treo sợi tóc!". Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng đã tập trung mọi nỗ lực củng cố lực lượng, xây dựng Nhà nước, chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến lâu dài.

Về ngoại giao, ngay sau khi tuyên bố trước thế giới nước Việt Nam độc lập, (1945), Hồ Chí Minh đã gửi nhiều thư và điện văn đến Liên Hợp quốc, những người đứng đầu Chính phủ Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, đặc biệt là đến Tổng thống, Bộ trưởng Ngoai giao và Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ nhằm kêu gọi và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, chống lại âm mưu gây chiến của thực dân Pháp hòng tái chiếm nước ta một lần nữa.

Về nội trị,ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Người nêu 6 nhiệm vụ cấp bách: Một là, phát động ngay chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói. Hai là, mở ngay chiến dịch chống nạn mù chữ. Ba là, tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Bốn là, mở chiến dịch giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ thói hư, tật xấu do chế độ thực dân để lại. Năm là, bỏ ngay thuế thân, thuế chợ, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện. Sáu là, tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.

Trước tình hình hoạt động ráo riết của các loại kẻ thù, Đảng và Nhà nước Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện sách lược vừa nguyên tắc, vừa mềm dẻo. Đối với các tổ chức, đảng phái phản động, Nhà nước ban hành các sắc lệnh: giải tán "Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng", "Đại Việt Quốc dân Đảng", "Việt Nam Hưng quốc thanh niên" và "Việt Nam Ái quốc thanh niên", thiết lập các tòa án quân sự, giải thể các cơ quan thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương. Với Pháp và Tưởng, lúc tạm hòa với Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp, lúc tạm hòa với Pháp để đẩy nhanh Tưởng ra khỏi đất nước. Thực hiện sách lược trên đã đặt các đảng phái, tổ chức phản động ra ngoài vòng pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp bọn phản cách mạng.

Để tăng cường thực lực cách mạng, các tổ chức trong Mặt trận Việt Minh chú trọng phát triển hội viên, mở rộng các tổ chức đoàn thể cứu quốc. Tháng 5-1946, theo sáng kiến của Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập, thu hút các đảng phái và cá nhân yêu nước. Người chủ trương mở rộng thành phần Chính phủ, đưa thêm các nhân sĩ, trí thức tham gia chính quyền cách mạng. Để điều hành đất nước và để bảo đảm cho hệ thống chính quyền mới thành lập hoạt động có hiệu quả, Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh với những quy định cụ thể. Chỉ tính từ ngày 2-9-1945 đến 31-12-1946, đã ban hành 181 sắc lệnh để tổ chức, xây dựng, kiện toàn chính quyền.

Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động "Chiến dịch tăng gia sản xuất và cứu đói", kêu gọi nhân dân và gương mẫu thực hiện "nhường cơm sẻ áo" bằng cách "cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa", đem gạo đó để cứu dân nghèo. Nhà nước tổ chức các đội lạc quyên cứu đói và quy định tiết kiệm lương thực ... Kết quả là nạn đói được đẩy lùi. Nhà nước tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý và ra Thông tư giảm tô 25% cho nông dân; mở lại các nhà máy do Nhật bỏ lại, tiến hành khai thác mỏ, khuyến khích kinh doanh; xây dựng "Quỹ độc lập", tổ chức "Tuần lễ vàng", phát hành tiền giấy bạc Việt Nam. Kết quả, đồng bào cả nước đã góp được 370 kg vàng, 60 triệu đồng, từng bước xây dựng nền tài chính độc lập. Người phát động phong trào "Đời sống mới", kêu gọi toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, nếp sống mới, xóa bỏ văn hóa nô dịch của chế độ thực dân, phong kiến; phát triển phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ. Chỉ trong một năm, ở Trung Bộ và Bắc Bộ đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết. Hệ thống giáo dục bước đầu được xây dựng. Tiếng Việt được chính thức dùng trong hệ thống trường học. Công tác y tế, vệ sinh phòng bệnh cũng được quan tâm, v.v..

Để thiết thực xây dựng, củng cố chính quyền Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh Tổng tuyển cử trong cả nước để bầu Quốc dân Đại hội và ấn định Hiến pháp của nước Việt Nam mới. Trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, bọn đế quốc, phản động ra sức quấy phá, Chính phủ kiên quyết lãnh đạo, tổ chức cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam mới. Nhân dân cả nước nô nức đi bầu cử. Những đại biểu do Mặt trận Việt Minh giới thiệu đều đạt được sự tín nhiệm tuyệt đối. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao nhất 98,4%. Nhân dân cả nước đã bầu 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội nhất trí tuyên bố: "Chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng với Tổ quốc" và trao cho Người quyền thành lập Chính phủ mới. Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được Quốc hội thông qua do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội biểu quyết thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dựa trên những nguyên tắc: "Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo. Đảm bảo các quyền tự do dân chủ. Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân".

Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ đòi hỏi phải củng cố, tăng cường lực lượng vũ trang (gồm ba thứ quân), tổ chức các khu quân sự dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ cuối năm 1945 đến năm 1946, Hồ Chí Minh ký nhiều sắc lệnh liên quan đến lực lượng vũ trang.

Sau khi chính quyền cách mạng ở các cấp trong cả nước được thành lập, đa số cán bộ, đảng viên tuân thủ đúng chương trình, kế hoạch và sắc lệnh của Chính phủ. Nhưng ở một số địa phương, không ít cán bộ đã phạm vào "những lầm lỗi rất nặng nề" như trái phép, cậy thế, quan liêu, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo... Để chấn chỉnh và sửa những lỗi lầm ấy, Hồ Chí Minh đã có Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, huấn thị rõ: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh".Người cũng tỏ thái độ dứt khoát: "Ai đã phạm những lỗi lầm trên này thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ "công bình, chính trực" vào lòng".

Trong điều kiện hiểm nghèo và gấp rút, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chính trị sáng suốt, vững vàng về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, "vững tay chèo, đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh hiểm trở", xây dựng và phát triển thực lực, chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc toàn quốc kháng chiến lâu dài.

Đối với Pháp, Chính phủ ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đàm phán, như ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 để cho 15.000 quân Pháp vào thay thế quân Tưởng ở miền Bắc. Theo Hiệp định, sau 5 năm, số quân này sẽ rút hết về nước, Pháp thừa nhận Việt Nam là một nước tự do. Nhưng thực dân Pháp không thực hiện, mà lấn dần từng bước và lập ra "nước Nam Kỳ tự trị", ở Nam Bộ không có đình chiến. Vì thiết tha với hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Pháp Tạm ước 14-9-1946, nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa, đồng thời trì hoãn thời gian khởi chiến và tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng. Điều đó thể hiện quyết tâm bảo vệ nền độc lập vừa giành được, biểu thị nguyện vọng thiết tha với hoà bình của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Từ giữa năm 1946, thực dân Pháp trắng trợn xóa bỏ các hiệp ước đã ký kết, nghiêm trọng hơn là chúng mở rộng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, đổ bộ hàng nghìn quân vào Đà Nẵng. Ngày 18-12-1946, chúng gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí của tự vệ Thủ đô, thực chất là chúng đã trắng trợn tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược.

Sáng ngày 19-12-1946, Hồ Chí Minh gửi thư riêng cho Xanhtơny, Uỷ viên Cộng hoà Pháp ở Đông Dương, đề nghị ông ta có cuộc gặp với Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám nhằm tìm một giải pháp để cải thiện tình hình hiện tại,nhưng bị Sanhtơny từ chối. Rõ ràng, dã tâm của thực dân Pháp là quyết tâm cướp nước ta một lần nữa, buộc chúng ta phải cầm vũ khí. Ngay đêm 19-12-1946, Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới; vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định sẽ về dân tộc ta!".

Thực hiện Lời kêu gọi của Người, toàn quân và dân ta cả nước một lòng quyết tâm đứng lên với tinh thần: "Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân, cứu nước". Từ đêm ngày 23-9-1945 khi Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn đến ngày 20-7-1954 khi quân Pháp bị thất bại hoàn toàn ở Điên Biên Phủ, toàn quân và dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ hơn 3.323 ngày đêm gian khổ, hy sinh, nhưng vô cùng anh dũng, tự hào. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh dài ngày nhất của thực dân Pháp. Gần nửa triệu quân xâm lược nhà nghề của Pháp đã bị tiêu diệt, 2.688 tỷ phrăng và hơn 2 tỷ 600 triệu USD viện trợ bị tiêu phí vào cuộc chiến tranh phi nghĩa; 20 lần Chính phủ Pháp bị đổ; 7 lần Toàn quyền Pháp bị triệu hồi; 8 Tổng Chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau bị thua trận. Cuối cùng, thực dân Pháp buộc phải chấp nhận thất bại trước sức mạnh "toàn quốc kháng chiến" của nhân dân Việt Nam, phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.  

Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam có ý nghĩa đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới mà khởi đầu là "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó "đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc". Những kinh nghiệm mà Đảng và nhân dân ta đúc rút được trong quá trình "Toàn quốc kháng chiến" có giá trị vô cùng to lớn đối với kho tàng lý luận Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc "Toàn quốc kháng chiến" chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới". Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ một chân lý của thời đại ngày nay là một dân tộc nhỏ nhưng đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết chiến đấu theo một đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, thì có đầy đủ khả năng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng có đội quân nhà nghề, thiện chiến, được trang bị hiện đại.Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về "Toàn quốc kháng chiến", là thắng lợi của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh.

"Sau chín năm chiến tranh, sức mạnh quân sự của thực dân Pháp đã bị đập tan tại Điện Biên Phủ. Tháng 7 năm đó (1954) với việc ký kết Hội nghị Giơnevơ, các dân tộc Đông Dương đã giành được độc lập. Với vũ khí của mình, Hồ Chí Minh đã là tác giả của thắng lợi đó và tên tuổi của Người đã được ghi vào những trang sử vẻ vang nhất" như Giáo sư Mighen Đêxtêphanô, Cố vấn Viện Nghiên cứu châu Á của Cuba đánh giá.

Trong giai đoạn hiện nay nước ta đã bước sang giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Phát huy bài học "Toàn quốc kháng chiến", toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực thực hiện 6 nhiệm vụ trong tâm mà Đại hội XII đã chỉ ra, trong đó có nhiệm vụ thứ tư là: "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế".


Bài học "giữ nước khi nước chưa nguy"

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cách đây vừa tròn 71 năm được xem là một lời hịch của non sông, là một văn kiện có tính chất cương lĩnh chính trị, quân sự có giá trị thời đại sâu. Lời hiệu triệu lịch sử vào ngày 19/12/1946 của chủ tịch Hồ Chí Minh sau này, ngày ấy được lấy làm: ngày toàn quốc kháng chiến.

Ngày hôm nay khi tổ quốc đã không còn tiếng súng, không còn đau thương giày xéo quê hương nhưng những bài học từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vẫn còn ý nghĩa lớn lao. Trong đó có những bài học có giá trị thời đại là bài học “Giữ nước khi nước chưa nguy”. Dựng nước và giữ nước là hai nhiệm vụ không thể tách rời của dân tộc ta trong thời đại mới. Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã phần nào toát lên nội dung của những nhiệm vụ này.

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đánh dấu bước ngoặt lớn cho lịch sử dân tộc. Khi vừa mời ra đời, nhà nước non trẻ đã phải đối mặt với vô vàn khó khăn thử thách từ thù trong giặc ngoài, đến nạn đói, nạn dốt. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác ra sức đàm phán với chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình bằng Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Phía Bắc, Quân Tưởng Giới Thạch cũng tiến vào và câu kết với thực dân Pháp, khiến chủ tịch Hồ Chí Minh phải nhân nhượng kí Hiệp định Xanh-tơ-ni. Tuy nhiên, thực dân Pháp vẫn tiếp tục gây hấn, khiêu khích chính phủ ta. Trước tình hình trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với Chính phủ Pháp Tạm ước ngày 14 – 9 – 1946, tiếp tục nhượng bộ cho Pháp.

Cuối tháng 11-1946, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Tại Hà Nội, trong các ngày 15 và 16, 17-12-1946 quân đội Pháp tiếp tục gây ra nhiều vụ tàn sát, đánh chiếm các công sở của ta. Và, “giọt nước làm tràn ly” chính là sự kiện ngày 18-12-1946, tướng Moóc-li-e gửi cho ta hai tối hậu thư, đòi ta phải giao quyền kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô Hà Nội cho chúng.

Trước tình hình đó, ngày 18 và 19-12-1946, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc. Ngay trong đêm 19/12/1946, Người đã soạn Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và công bố trong bối cảnh đất nước ta đang gặp nhiều khó khăn thử thách. Nhưng với ý chí quyết tâm “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” của cả dân tộc đã giúp cho Đảng, chính phủ vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng đi đến thành công. Hiện nay trong bối cảnh đất nước đang trong giai đoạn hòa bình ổn đinh đi lên xây dựng CNXH, vấn đề ngoại xâm nội phản vẫn còn là một vấn đề cần đặt ra. Quan điểm “Giữ nước khi nước chưa nguy” không phải đến nay mới được đề cập mà trong lịch sử dựng nước, giữ nước quan điểm này cũng được đề cập và giải quyết một cách có hiệu quả. Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng khẳng định tiếp tục thực hiện những mục tiêu, quan điểm, phương hướng, phương châm chỉ đạo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc mà Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX đã đề ra, đồng thời bổ sung, phát triển Chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình hiện nay. Đảng ta chỉ rõ những vấn đề rất cơ bản của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: “Nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của ông cha ta: “Dựng nước đi đôi với giữ nước”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa” . Phải thực hiện bằng được: “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị – xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất” .

Những bài học từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Người được hậu thế đúc kết và trở thành những bài học có giá trị trong đó có bài học về giữ nước khi nước chưa nguy.

Thứ nhất là bài học trong chính sách quân sự, đối ngoại một cách khôn khéo mềm dẻo, nhưng vẫn xác định rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong thời kỳ hòa bình, đổi mới. Việt Nam là quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng, là đầu mối giao thông, hàng hải từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương và từ lục địa Châu Á xuống khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh toàn cầu hóa việc đặt quan hệ ngoại giao với các quốc gia trong khu vực và thế giới là điều tất yếu. Tuy nhiên, nước ta vẫn còn là nước kinh tế chưa thực sự phát triển cân xứng với tiềm năng, các tiềm lực vũ trang cũng cần được đầu tư và trang bị hiện đại. Nguy cơ trước vấn đề bành trướng lãnh thổ cũng như bành trướng về mặt kinh tế, chính trị vẫn còn đặt ra vô cùng cấp bách. Việc thực hiện các chính sách ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo là một vấn đề quan trọng, cần thiết.

Trong văn kiện Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã cho thấy sự mềm dẻo của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với chính sách ngoại giao: “ Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ quan điểm muốn hòa bình và quan điểm nhất quán đó chính là đánh đổi tất cả để giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc. Đồng thời Người cũng đã xác định rõ kẻ thù và âm mưu của kẻ thù. Qua đó xác định được nhiệm vụ cụ thể của toàn Đảng toàn dân trong bối cảnh đất nước lâm nguy. Từ quan điểm ngoại giao đó của chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày nay Đảng, chính phủ ta vẫn luôn nhất quán quan điểm ngoại giao trên cơ sở giữ gìn hòa bình, an ninh quốc gia và khu vực, hạn chế tối đa mọi xung đột, tránh đổ máu. Tuy nhiên, chúng ta cũng cương quyết với những thủ đoạn bành trướng của các thế lực ngoại xâm và nội phản. Một mặt, chúng ta củng cố phát triển kinh tế, xã hội làm tiền đề cho mặt thứ hai đó là củng cố an ninh quốc phòng. Chúng ta không chạy đua vũ trang nhưng cần trang bị các thiết bị vũ trang hiện đại để luôn luôn sẵn sàng bảo vệ tổ quốc khi đất nước lâm nguy.

Thứ hai, là bài học trong quan điểm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đất nước ta với lãnh thổ trải dài trên 15 vĩ độ, với hơn 50 dân tộc anh em với nhiều màu sắc văn hóa. Ngay từ những ngày đầu ra đời Đảng và chính phủ đã xác định nhiệm vụ đoàn kết toàn dân là nhiệm vụ quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vận dụng nhuần nhuyễn nội dung quan điểm này trong nhiều văn kiện. Khi ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến Người cũng đưa ra quan điểm toàn dân kháng chiến. “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt thì phải đứng lên chống thực dân Pháp”. Bằng những câu văn ngắn gọn, súc tích Người đã nêu bật lên được tất cả các đối tượng tham gia cách mạng, nói lên được sự bình đẳng tôn trọng về tôn giáo, dân tộc trong nhiệm vụ kháng Pháp.

Ngày nay, trong những luận điệu chia rẻ của kẻ thù thì vấn đề dân tộc, tôn giáo cũng được đặt ra rất cấp bách trong các chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Việc giải quyết tốt các mối quan hệ trong cộng đồng dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng giúp cho Đảng, chính phủ giải quyết tốt các nhiệm vụ được đề ra. Đặc biệt trong các vấn đề ở khu vực biên giới phía bắc, biên giới phía Nam, khu vực Tây Nguyên hiện đang là những vấn đề nóng. Những quan điểm, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết dân tộc về Mặt trận dân tộc thống nhất ở thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế được tổng kết và nâng cao tầm nhận thức trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được luật hóa bằng Hiến pháp và các luật, đã từng bước đi vào cuộc sống đã khơi dậy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân trên mọi việc của đời sống xã hội. Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc khóa XII của Đảng đã nhận định: “khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức”.

Thứ ba, là bài học trong quan điểm giữ nước trên tất cả mọi phương diện. Quan điểm toàn dân, toàn diện kháng chiến được Đảng và chính phủ đưa ra từ rất sớm, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vận dụng quan điểm này trong nhiều văn kiện cũng như trong thực tế. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người đã nêu rõ nhiệm vụ kháng chiến, đối tượng tham gia kháng chiến và cả hình thức kháng chiến. Đây là cuộc chiến lâu dài không chỉ vài năm mà có thể 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Kẻ thù có dã tâm xâm lược nước ta trên tất cả mọi mặt chính vì thế chúng ta cũng phải đánh kẻ thù trên nhiều mặt và bằng nhiều biện pháp.

Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đa phương, đa dạng hóa sự giao lưu hợp tác giữa các nước trên nhiều phương diện. Vấn đề giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc để hội nhập và không bị hòa tan là một nhiệm vụ quan trọng những cũng vô cùng khó khăn. Việc hợp tác phát triển trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đã làm bộ mặt đất nước thay đổi từng ngày. Tuy nhiên, những hệ lụy chúng ta đang đối mặt cũng rất lớn như suy thoái kinh tế, sự ô nhiêm môi trường, sự du nhập của nhiều luồng văn hóa ngoại lai lấn át văn văn hóa bản địa, dân tộc… Đây cũng là những mặt trận quan trọng để giữ vững bản sắc dân tộc, giữ vững truyền thống của cha ông từ ngàn xưa để lại. Bài toán kinh tế, chính trị, xã hội được đặt ra cho các nhà hoạch định, phải làm thế nào để vừa ổn định đất nước, vừa phát triển kinh tế vừa không làm mai một đi bản sắc quốc gia dân tộc.


Hiện nay, Đảng và chính phủ đang từng bước xây dựng và hoạch định những định hướng cho đất nước. Mọi mặt trận, mọi công dân Việt Nam cần có sự đoàn kết, quyết tâm tin tưởng theo sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ để sớm vượt qua những khó khăn, thử thách của thời đại mới. Những bài học từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là ngọn đèn soi sáng cho thế hệ sau. Đặc biệt, trong không khí chào mừng kỷ niệm 71 năm ngày toàn quốc kháng chiến, lời kêu gọi của Người như tiếng gọi của non sông trong thời đại mới giúp toàn đảng, toàn dân vững chân trên chặng đường đổi mới, hội nhập.

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh trong “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”

Đã 71 năm trôi qua, đọc lại Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, chúng ta vẫn cảm nhận thấy hào khí của Lời kêu gọi cứu nước, đồng thời cũng thấy trong văn kiện lịch sử này những nét đặc sắc của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

Chiến tranh nhân dân

Năm 1945, nước ta vừa giành được độc lập thì nạn ngoại xâm đã ập tới. Ngày 23/9 năm đó, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam bộ. Sau hàng loạt cố gắng trên bàn đàm phán, trước sự lấn tới của thực dân Pháp, chiến tranh đã nổ ra bởi “cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, đối phương chủ trương gây chiến.

Không còn con đường nào khác, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa. Hồ Chí Minh không chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn xâm lược. “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”.

Khi không còn khả năng có thể tránh được chiến tranh thì Hồ Chí Minh kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Các nhà nghiên cứu đánh giá: Tiếp theo Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai đề cập đến mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng tháng 8/1945. Đó là Độc lập - Tự do -Hạnh phúc, là những khát vọng của một dân tộc đã bị mất nước, bị nô lệ 80 năm. Bởi vậy ta có thể hiểu vì sao toàn dân Việt Nam đã hưởng ứng Lời kêu gọi của Bác Hồ và các thế hệ người Việt Nam, từ đời cha đến đời con đã tự nguyện hy sinh chiến đấu đến cùng cho những mục tiêu ấy.

Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày quan điểm “Chiến tranh nhân dân” một cách vô cùng giản dị và hào hùng. Có thể nói nét độc đáo, đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là ở hai chữ toàn dân. Bác viết: “Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.

Đây là một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về kháng chiến toàn dân, toàn diện.

Lời kêu gọi kết thúc bằng khẳng định niềm tin tất thắng: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta. Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Lời Hịch cứu nước - là một áng hùng văn sáng chói của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

Ba ý nghĩa thực tiễn

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Hà Nội ở cả 3 Liên khu lúc bấy giờ đã chiến đấu với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ thu hút lực lượng địch, giam chân kẻ thù trong thành phố suốt 60 ngày đêm và thực hiện thắng lợi cuộc rút lui chiến lược thần kỳ của Trung đoàn Thủ đô về hậu phương an toàn, làm thất bại kế hoạch của Pháp hòng bao vây tiêu diệt lực lượng ta.

Nhìn lại lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến và những diễn biến tiếp sau đó của lịch sử có thể tìm ra từ đây ba bài học có ý nghĩa thực tiễn lớn.

Một là, kiên quyết giữ vững hòa bình, ổn định, ngăn ngừa, loại trừ nguy cơ chiến tranh, bảo đảm môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ra đời giữa lúc chúng ta phải thực hiện mọi biện pháp có thể được, tuân thủ phương châm "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" để giữ gìn, củng cố nền hòa bình, để nhân dân ta có điều kiện xây dựng và gia tăng sức mạnh đất nước.

Hai là, Lời kêu gọi chỉ ra rằng, nhân dân ta rất yêu chuộng hòa bình, khát khao và mong muốn hòa bình, không muốn xảy ra chiến tranh, nhưng không phải thế mà chờ đợi một cách thụ động.

Ba là, khi chiến tranh xảy ra thì thực hiện chiến tranh nhân dân, cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc, quyết tâm chiến thắng quân thù. Ý chí sắt đá quyết tâm bảo vệ Tổ quốc và tư tưởng kháng chiến toàn dân, toàn diện là nội dung cơ bản, đặc biệt quan trọng trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Khi đã đến giới hạn không thể "nhân nhượng" được nữa, bởi vì kẻ thù ngày càng "lấn tới", thì chúng ta buộc phải cầm súng và sẵn sàng đương đầu chống xâm lược, quyết bảo vệ độc lập tự do và cuộc sống của mình.

Yêu chuộng hòa bình, khát khao hòa bình phải gắn với việc kiên quyết đấu tranh để bảo vệ hòa bình, nếu kẻ thù rắp tâm xâm lược nước ta thì chúng ta "quyết không sợ", quyết đứng lên chiến đấu đến cùng. Đó là thái độ và ý chí quyết tâm của nhân dân ta.


“Tư tưởng cơ bản của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chỉ ra rằng, ý chí quyết không sợ không phải là tinh thần quả cảm chung chung, mà phải gắn bó chặt chẽ với việc quyết chiến, biết chiến thắng kẻ thù. Lời giải cơ bản của bài toán biết chiến thắng kẻ thù là thực hiện chiến tranh nhân dân, hễ là người Việt Nam đều phải có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc”

Giá trị nhân văn quân sự trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến

Sau 71 năm và sẽ mãi mãi về sau, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Người luôn mang tính thời sự và giữ nguyên giá trị nhân văn quân sự.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) như lời “Hịch” đối với toàn dân tộc trước họa xâm lăng của thực dân Pháp, nhưng chứa đựng sự giàu có về giá trị nhân đạo, nhân văn - nhân văn quân sự. Sau 71 năm và sẽ mãi mãi về sau, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Người luôn mang tính thời sự và giữ nguyên giá trị đó.

Quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua nhiều giai đoạn gay go, phức tạp, nhưng chưa lúc nào gay cấn được ví như “ngàn cân treo sợi tóc” vào thời điểm cuối năm 1946. Cùng một lúc, dân tộc ta phải đối mặt với nhiều kẻ thù như: quân Anh, quân Tưởng Giới Thạch, quân Pháp và những đảng phái, các lực lượng phản động trong nước nổi lên. Chúng cùng có âm mưu chống phá cách mạng, xóa bỏ chính quyền nhà nước cách mạng non trẻ - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Trung ương Đảng ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” vào đúng thời điểm gay go, có tính quyết định nhất đến vận mệnh quốc gia, dân tộc. Có thể tiếp cận giá trị Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ở các góc độ khác nhau, nhưng nổi lên nhất là: “Giá trị nhân văn quân sự”.

Từ: “Hỡi…” được dùng ba lần gắn với ba nội dung khác nhau, nhưng thống nhất ở tinh thần thông báo tình hình nguy cấp, có tính đột biến, khẩn trương để thức tỉnh nhận thức; nâng tầm cao mới về thái độ, lương tâm, ý chí của mỗi con người Việt Nam. Chữ “Hỡi” trong mệnh đề đầu tiên là: “Hỡi đồng bào toàn quốc”. Câu văn này gắn với nội dung thông báo tính khẩn cấp của toàn cục tình hình đất nước, dân tộc. Tiếp đến là chỉ rõ, khẳng định tinh thần nhân đạo, nhân văn của dân tộc ta: “Chúng ta muốn hoà bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”.

Những cụm từ: “muốn hòa bình”; “phải nhân nhượng”; “càng nhân nhượng” thể hiện một tinh thần không muốn diễn ra chiến tranh; làm rõ một sự nhân nhượng đến tận cùng để có hòa bình.

Tinh thần ấy càng được tôn lên khi đặt trong quan hệ với âm mưu, thái độ thực dân Pháp là: “Thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Những lời lẽ “càng lấn tới” ; “quyết tâm cướp nước ta một lần nữa” đã đặt toàn dân tộc, mỗi con người Việt Nam vào tình huống bức bách phải lựa chọn một trong hai: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập.

Trước hai sự lựa chọn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một cách đanh thép bằng một từ: “Không!...” để thể hiện rõ sự lựa chọn con đường quyết tâm đánh giặc. Từ “không!” trong mệnh đề có giá trị như một “kích hoạt” vào trạng thái tinh thần hiện có, để được nhân lên gấp bội lần qua sự thức tỉnh  đối với mỗi con người Việt Nam trước họa xâm lăng. Quyết tâm ấy là: “… Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Bằng nghệ thuật diễn đạt của lời “Hịch”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đẩy quyết tâm đánh giặc của toàn dân tộc lên đến đỉnh cao nhất.

Những mệnh đề: “Chúng ta phải đứng lên!”;  “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Chữ “Hễ” vừa dễ hiểu, vừa dễ đi vào nhận thức con người và cũng hàm ý không loại trừ một ai trong đánh giặc cứu nước.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến còn chỉ rõ cách thức cụ thể để bất cứ ai cũng có thể đánh được giặc: “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”; “Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước” đã thể hiện rõ một ý chí quyết tâm; một cách thức thực hiện rất cụ thể và cho phép không loại trừ một ai. Những nội dung trên, với cách diễn đạt dễ hiểu, nhưng có chất kích thích tinh thần cách mạng rất mạnh mẽ.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đã nhanh chóng đi vào tâm thức, ý chí, quyết tâm mỗi con người dân tộc ta. Tinh thần Lời kêu gọi là sự tiếp biến giá trị văn hóa quân sự trong truyền thống yêu nước đánh giặc lên đến đỉnh cao nhất trong thời đại mới. Truyền thống của: “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư…” (thời Lý); tiếng hô “quyết đánh” của các bô lão thời Trần trong Hội nghị Diên Hồng, đặc biệt là “Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn; tư tưởng về “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” của Nguyễn Trãi; tinh thần thần tốc: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để răng đen (Quang Trung)… đã được hun đúc trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến có sức mạnh tinh thần to lớn - sức mạnh của chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn Việt Nam từ chiều sâu truyền thống, diện rộng của toàn dân, tầm cao của thời đại. Vì thế, nó trở thành sức mạnh vật chất đánh bại đội quan viễn chinh của thực dân Pháp kéo dài chín năm bằng trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đã diễn ra 71 năm, nhưng giá trị nói chung và giá trị nhân đạo, nhân văn quân sự Việt Nam vẫn nguyên giá trị. Nó là trường tồn, đồng thời luôn có tính thời sự.

Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu đưa dân tộc ta quay về vòng nô lệ mới. Trong bối cảnh chung ấy, diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; những nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã đặt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vào tình huống mới, phải tiếp tục phát huy giá trị từ Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngang tầm thời đại. Hiện nay, chúng ta tập trung vào khắc phục, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu lực, hiệu quả. Tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII: “cả hệ thống chính trị phải vào cuộc”, tức là mỗi con người Việt Nam phải hành động một cách thiết thực.


Các thế hệ hôm nay có quyền tự hào về truyền thống hào hùng của các thế hệ cha anh trong thực hiện “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”, làm nên chiến thắng, đồng thời phải thể hiện rõ trách nhiệm đối với lịch sử, hiện tại và tương lai đất nước. Là người Việt Nam thì phải có trách nhiệm ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ ấy bằng sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn đến đỉnh cao, thực hiện thắng lợi mục tiêu  dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

"Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" của Bác Hồ - nhìn từ góc độ văn chương

Một trong những văn bản lịch sử quan trọng nhất của lịch sử dân tộc nói chung, cũng như lịch sử kháng chiến bảo vệ Tổ quốc nói riêng, là "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" do Chủ tịch Hồ Chí Minh chắp bút. Lịch sử Việt Nam-một lịch sử được viết nên bởi biết bao cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thần thánh, chắc chắn đã được viết nên bởi những văn bản có tính chất khai sinh và tuyên chiến, trước và sau chiến tranh. Chính vì vậy, những lời tuyên ngôn độc lập và những văn bản tuyên bố chiến tranh, kêu gọi nhân dân đứng lên vệ quốc nghiễm nhiên có vị trí lịch sử hệ trọng. "Hịch tướng sĩ" và "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là những văn bản lịch sử vĩ đại của dân tộc, khẳng định và nhấn mạnh sự bất khuất, ý chí độc lập tự cường của dân tộc Việt Nam.

Nếu bản "Tuyên ngôn Độc lập" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc trước Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2-9-1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, thì "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam vào ngày 20-12-1946, là văn bản kêu gọi toàn dân đứng lên bảo vệ thành quả cách mạng và tuyên chiến với thực dân Pháp. Có lẽ, trong lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số ít người đã chắp bút nên nhiều văn bản hệ trọng đối với vận mệnh dân tộc như vậy.

Tuy nhiên, ở đây chúng ta sẽ không phân tích nhiều về giá trị lịch sử của một văn bản mà quá nhiều người đã nghiên cứu sâu ở góc độ chính trị, quân sự, đối ngoại… Điểm nhìn của chúng tôi trong bài viết này xuất phát từ nghệ thuật sử dụng ngôn từ và giá trị văn chương của văn bản. Vì thời gian cấp bách, khẩn trương, giặc Pháp lại đã ở ngay trên nước ta, nên hình thức thi pháp của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" được viết theo lối cực hạn (minimalism), không dài dòng, không có nhiều biện pháp tu từ, ẩn dụ nghệ thuật. Toàn văn "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" chỉ có chưa đầy 200 từ, nhưng đã chuyển tải trọn vẹn ý nghĩa thông điệp của nó lẫn mang những đặc trưng nghệ thuật riêng cho thể loại văn bản này.

Đối với "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" thì điều đầu tiên cần làm rõ đó là ai nói và nói với ai, chủ thể nói phải có chủ thể nghe nhằm tương tác để tạo nên trường đối thoại. Chủ thể nói không phải là cá nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà là toàn thể dân tộc. Nếu tinh ý, ta sẽ nhận ra đại từ nhân xưng của người nói trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là “chúng ta” (Chúng ta thà hy sinh tất cả), chứ không phải “ta” như trong "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn ("Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa"), cũng không phải là “Trẫm” như trong Chiếu Cần Vương ("Trẫm đức mỏng, gặp biến cố này không thể hết sức giữ được, để đô thành bị hãm, xa giá phải dời xa, tội ở mình trẫm cả, thật là xấu hổ vô cùng"). Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu chọn tâm thế, tư thế đại diện cho tiếng nói lương tri, yêu nước của toàn thể nhân dân, không phải với tư cách một người tổng tư lệnh, đứng đầu nhà nước. Do đó, tựa đề của văn bản là "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" chứ không phải Hịch như "Chiếu Cần Vương" hay "Hịch tướng sĩ". Việc lựa chọn ngôi trần thuật nhân xưng này cho thấy tư tưởng trọng dân, tôn dân của người đứng đầu chính quyền cách mạng. Về đối tượng người nghe, nếu trong "Hịch tướng sĩ", đối tượng này là quân sĩ, bộ tướng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ("Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương"), trong "Chiếu Cần Vương" là thần dân của thiên tử ("Phúc của tôn xã tức là phúc của thần dân, cùng lo với nhau thì cùng nghĩ với nhau, há chẳng tốt lắm ư?"), thì trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", đối tượng người nghe rộng hơn, là toàn thể nhân dân - công dân Việt Nam. Quan hệ giữa người nghe và người nói trong "Hịch tướng sĩ"hay "Chiếu Cần Vương" là quan hệ thứ bậc (chủ nhân nói với nô tài, tướng nói với lính, vua nói với con dân) nên đại từ thể hiện rõ tính chất quan hệ là “ta”, “trẫm” với “các ngươi”. Ngược lại, quan hệ người nói và người nghe trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là bình đẳng, Bác Hồ đã dùng từ “đồng bào”, “chúng ta” để đối thoại. Người nghe không bó hẹp trong một tầng lớp nào: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" cũng nhấn mạnh giá trị thiêng liêng của cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, chứ không chỉ nhấn mạnh vào các giá trị lợi ích tập đoàn cụ thể. “Chúng ta muốn hòa bình… vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa… Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Giá trị nhân văn cao cả của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" nằm ở chỗ nêu rõ giá trị chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại. Đó là một cuộc đấu tranh của một dân tộc, một đất nước có chủ quyền để chống lại chế độ thực dân đang muốn nô lệ hóa thuộc địa một lần nữa.

Sau nhân dân nói chung, đối tượng nghe được khuôn gọn lại và nhấn mạnh vào trong các lực lượng vũ trang và tự vệ. Đây hẳn nhiên là đối tượng nghe tất yếu của mỗi bản kêu gọi kháng chiến, bởi vì lực lượng vũ trang là những người tiên phong và chủ lực nhất trong mỗi cuộc chiến nhằm bảo vệ Tổ quốc. “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến”.

Tuy nhiên, đối tượng người nghe của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" không chỉ gói gọn trong phạm vi nhân dân Việt Nam, mà rõ ràng còn hướng đến đối tượng ngầm ẩn khác trong văn bản, đó là thực dân Pháp. Đối tượng nghe này không xuất hiện tường minh trên văn bản, nhưng rõ ràng tác giả khi viết đã dự trù hướng đến đối tượng người nghe này. Vận dụng lý thuyết “người đọc tiềm ẩn” của nhà bác học Đức W.I-sơ, ta có thể khẳng định trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", thực dân Pháp là một đối tượng nghe/đọc tiềm tàng. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến tính toàn dân trong cuộc kháng chiến, tinh thần quyết tử để Tổ quốc quyết sinh nhằm biểu đạt lời răn đe mạnh mẽ đến kẻ thù. "Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước". Quyết tâm sắt đá này được thể hiện với kẻ thù như một tuyên bố có tính cảm tử, sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập, tự do. “Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”. Chính vì đối tượng nghe ngầm ẩn bao gồm cả thực dân Pháp, nên lời lẽ, văn phong, giọng điệu của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" hùng tráng, cương mãnh, gãy gọn, chắc nịch là một lời tuyên chiến chính thức. "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" như vậy là một văn bản kép, vừa tuyên chiến cảm tử với kẻ thù (thực dân Pháp), lại vừa động viên, kêu gọi toàn dân đứng lên đánh giặc. Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ vai trò đại đoàn kết dân tộc trong mọi cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc.

Đối tượng người nghe cuối cùng của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", đó là toàn thể cộng đồng quốc tế yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát ra một thông điệp về ý nghĩa cuộc kháng chiến vệ quốc lần này của dân tộc Việt Nam. Việt Nam đã cố gắng hết sức nhân nhượng với đế quốc Pháp nhằm giữ gìn nền hòa bình. Trên thực tế, chúng ta đã nhân nhượng qua hai lần ký kết "Hiệp định Sơ bộ Việt-Pháp" ngày 6-3-1946 rồi "Tạm ước Việt-Pháp" ngày 14-9-1946. Đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã sang tận Pháp để hòa đàm, nhưng kết cục trước dã tâm quá lớn của đế quốc Pháp, cuộc chiến tranh không mong muốn nhưng tất yếu của Việt Nam vẫn buộc phải diễn ra để tự vệ và cũng để bảo vệ nền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc. “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”.


Với đa phần là những câu ngắn, câu đặc biệt mang tính khẳng định, mệnh lệnh:“Không!”, “Hỡi đồng bào!”, “Kháng chiến thắng lợi muôn năm”…, "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển tải toàn bộ ý nghĩa lịch sử của một lời hiệu triệu dân tộc và tuyên chiến với kẻ thù. "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" đã thể hiện được tư tưởng, khí chất Hồ Chí Minh nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Một dân tộc yêu chuộng hòa bình, dân chủ, nhưng sẵn sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc, “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Sau 71 năm nhìn lại, "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Bác Hồ vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và tư tưởng.

Áng hùng văn thời đại Hồ Chí Minh

Trong tình thế hiểm nghèo, tưởng chừng không vượt qua được, song Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, khôn khéo chèo lái con thuyền cách mạng, nhận định đúng tình hình và phát động toàn quốc kháng chiến đúng thời điểm. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” thật sự là áng hùng văn mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kéo dài chín năm kết thúc bằng thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ.

“Cây muốn lặng, gió chẳng đừng”

Lúc đó, nước ta vừa giành được độc lập thì nạn ngoại xâm đã ập tới. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt kêu gọi nhân dân Nam bộ và Nam Trung bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác đàm phán với Chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người ký với đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Phôngtenblô. Cuộc đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống trị Việt Nam.

Sau đó, Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp Tạm ước 14/9/1946. Ngày 16/9/1946, Người rời cảng Tulông (Pháp) trở về nước. Ngày 16/10, Người gặp Đácgiăngliơ ở Vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14/9 không được thực hiện ở Nam bộ. Tại Bắc bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng ngày 23/11/1946. Tại Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng trắng trợn. Dã tâm gây hấn của Pháp ở Thủ đô bộc lộ rõ rệt khi quân đội Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí.

Trước tình hình đó, ngày 18, 19/12/1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Nội), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.

Từ ngày 3 đến 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc (Hà Nội) sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương. Tại đây, ngày 19/12, trên căn gác xép, Người viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

20 giờ ngày 19/12, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20/12 tại Hang Trầm (Chương Mỹ, Hà Nội), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Như vậy là mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh nhưng “cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, đối phương chủ trương gây chiến. Không còn con đường nào khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh phải dùng chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chút ảo tưởng về lòng nhân từ của bọn xâm lược.

“Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Trong cuộc đấu tranh chống kẻ xâm lược, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Đó là quan điểm cơ bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững trong cuộc khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đó cũng là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

Vùng lên chiến đấu

“Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”.  Khi đã buộc phải kháng chiến thì Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Sau bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” là văn kiện thứ hai đề cập đến mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng và cuộc kháng chiến. Đó là độc lập tự do hạnh phúc, là những khát vọng của một dân tộc đã bị mất nước, bị nô lệ 80 năm. Bởi vậy, có thể hiểu vì sao toàn dân Việt Nam đã hưởng ứng Lời kêu gọi của Bác Hồ và các thế hệ người Việt Nam, từ đời cha đến đời con đã tự nguyện hy sinh chiến đấu đến cùng cho những mục tiêu ấy.

“Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.

Trong Lời kêu gọi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày quan điểm “chiến tranh toàn dân” một cách vô cùng giản dị và hào hùng. Có thể nói, nét độc đáo, đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở hai chữ “toàn dân”. Đây được coi như một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân là lực lượng vũ trang ba thứ quân.

Tiếp theo Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” là văn kiện thứ hai mang tính cương lĩnh quân sự về kháng chiến toàn dân. “Toàn dân” theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có một lời kêu gọi dành riêng cho bộ đội, tự vệ, dân quân: “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”.

Mốc son chói lọi

Hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, lực lượng vũ trang Nam Định đã bao vây giam giữ 800 quân Pháp trong nhà máy sợi gần ba tháng; ta đã đánh phá giao thông quyết liệt ở đường số 5; ở thị xã Vinh ngay từ đêm nổ súng quân Pháp đã phải hàng quân ta; ở Huế, sau 50 ngày vây đánh, ta đã diệt gần 200 tên Pháp; ở Đà Nẵng, mặc dù quân Pháp gần 1 vạn tên nhưng ta cũng đã hoàn thành nhiệm vụ bao vây; ở Hà Nội, trong hoàn cảnh chiến đấu vô cùng khó khăn và chênh lệch về vũ khí, Trung đoàn Thủ đô mãi đêm 17/2/1947 mới rút ra khỏi nội thành, sau 60 ngày đêm chiến đấu ngoan cường trong lòng thành phố đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bao vây, tiêu diệt địch, tạo thời gian cần thiết để di chuyển các cơ quan, công xưởng lên vùng chiến khu, vượt trước thời gian so với lời hứa của Bộ trưởng Quốc phòng với Bác Hồ gần một tháng.

Hơn nửa thế kỷ đi qua, ngày 19/12/1946 mãi mãi ghi vào lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta như một mốc son chói lọi. Toàn dân tộc Việt Nam nhất tề đứng dậy theo tiếng gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Bằng cuộc tiến công tối 19/12/1946, mở đầu theo lệnh từ Hà Nội, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thực hiện nguyên tắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam: Không để cho kẻ địch đánh theo cách đánh của chúng, mà buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Nguyên tắc đó đã chỉ đạo quân dân ta suốt 30 năm chiến tranh giải phóng.

“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” - Biểu tượng mẫu mực về nghệ thuật phát huy sức mạnh toàn dân

Cách đây tròn 71 năm, trước vận mệnh của dân tộc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra một quyết định lịch sử, chính xác, kịp thời - Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, kêu gọi toàn dân tộc nhất tề đứng lên, tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Năm tháng đã qua đi, nhưng âm hưởng hào hùng của Lời kêu gọi vẫn còn mãi với thời gian, để lại cho Đảng và sự nghiệp cách mạng nước ta những bài học hết sức quý báu, có ý nghĩa to lớn và thiết thực với công cuộc đổi mới đất nước hôm nay; một trong số đó là bài học khơi dậy, quy tụ và phát huy sức mạnh toàn dân.


1- Trên cơ sở kế thừa truyền thống quý báu của cha ông về tập hợp sức mạnh của quần chúng nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc - truyền thống “cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc”, đồng thời vận dụng một cách sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử vào tình hình và điều kiện thực tế của cách mạng Việt Nam; trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng nước nhà, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc tập hợp, khơi dậy và phát huy “sức mạnh vô tận” của quần chúng nhân dân, từ đó tạo thành sức mạnh tổng hợp để giành chiến thắng, viết nên những trang sử oanh liệt, oai hùng của dân tộc. Và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã trở thành một trong những biểu tượng mẫu mực, đỉnh cao của nghệ thuật khơi dậy và phát huy sức mạnh của nhân dân, sức mạnh toàn dân trong thời đại mới.

Thật vậy, bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, một câu hỏi lớn đặt ra cho Đảng và nhân dân ta là, chúng ta sẽ tiến hành cuộc kháng chiến như thế nào để có thể giành được thắng lợi trước một kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế, khoa học và quân sự,... Với tư duy biện chứng sâu sắc và tầm nhìn chiến lược, Hồ Chí Minh đã thấy sức mạnh của cuộc kháng chiến ngay ở trong nhân dân. Người chỉ rõ, “trong cuộc kháng chiến, kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”, và rằng “sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.

Một trong những thành công nổi bật trong phát huy sức mạnh toàn dân của Đảng ta và Hồ Chí Minh, được thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là đã khơi dậy điểm tương đồng, ý thức, trách nhiệm và nghĩa vụ chung của mọi người dân đối với Tổ quốc. Theo đó, không phải ngẫu nhiên mở đầu Lời kêu gọi Hồ Chí Minh lại dùng cụm từ “Hỡi đồng bào toàn quốc!” và sau đó Người còn nhắc lại một lần nữa ba từ “Hỡi đồng bào!”. “Đồng bào” vốn là một khái niệm dùng để gọi những người cùng nguồn cội, giống nòi, một dân tộc, một Tổ quốc với mình nói chung, với hàm ý có quan hệ thân thiết như ruột thịt. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã sử dụng thuật ngữ này một cách nhuần nhuyễn, tài tình, đúng cách, qua đó đã phát huy hiệu quả đích thực, truyền tải và nhân lên sức mạnh to lớn, làm lay động lòng người, tác động sâu thẳm vào tư tưởng, tình cảm mỗi con người; có tác dụng thức tỉnh lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, ý chí tự lực, tự cường, niềm tự hào, ý thức tự tôn dân tộc, sự kiên cường, dũng cảm ở mỗi người Việt Nam. Từ đó, làm cho mỗi người nhận thức được mình phải làm gì, làm như thế nào ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến, thiết thực đóng góp vào sức mạnh toàn dân tộc bảo vệ độc lập, tự do. Đồng thời, quy tụ, tập hợp lực lượng, nguồn nhân lực, tài lực, vật lực, trí lực,.. để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.

Mặt khác, sự sáng tạo, độc đáo của Hồ Chí Minh trong vấn đề này còn được thể hiện ở việc xác định và sử dụng lực lượng để phát huy cao nhất sức mạnh toàn dân. Trong đó, Lời kêu gọi không dừng lại ở việc nêu lên ý thức trách nhiệm chung chung, ở lực lượng chung chung, mà đã chỉ ra một cách rõ ràng, cụ thể, hợp lý vị trí, vai trò của mỗi một thành phần, mỗi lực lượng trong xã hội. Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc...”. Điều đó có nghĩa, lực lượng tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mọi người dân Việt Nam, không phân biệt tuổi tác, giới tính, lương giáo, đảng phái, dân tộc, thành phần giai cấp, binh sĩ, tự vệ hay dân quân,... Ai cũng đều thấy rõ bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của mình và phải ra sức chống thực dân Pháp cứu quốc. Bởi theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổ quốc là chung, Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do, nếu nước mất thì ai cũng phải làm nô lệ. Do vậy, đã là người Việt Nam đều có chung một Tổ quốc, đều có nghĩa vụ và quyền lợi chung là phải đánh giặc, cứu nước. Quyền và nghĩa vụ ấy như một lẽ tự nhiên, lẽ sống của con người chân chính. Nó khác với thứ nghĩa vụ mang tính áp đặt, buộc phải tham gia vào một cuộc chiến tranh trong các chế độ mà người dân không phải là người chủ thực sự của đất nước.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, công nhân Nhà máy Ðiện Yên Phụ phá máy, 20 giờ 3 phút, đèn điện trong thành phố vụt tắt, ít phút sau, pháo binh ta từ pháo đài Láng bắn dồn dập vào thành. Đó cũng là tiếng súng phát lệnh mở màn cho cuộc toàn quốc kháng chiến; toàn dân, toàn quân ta nhất tề đứng lên kháng chiến với tinh thần “mỗi quốc dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài” và với tư thế đàng hoàng, tự tin, không hề nao núng. Trong đó, tại mặt trận Hà Nội, nhân dân đã chặt cây, đem toa xe lửa, toa tàu điện ra chất đống ở các ngả đường, thậm chí mang cả đồ gia bảo như hoành phi, câu đối, tủ, giường, bàn, ghế,... lập thành chiến lũy để chặn đánh quân thù. Cả Thủ Đô thực hiện “vườn không nhà trống”, không để cho quân Pháp cướp bóc; mỗi ngôi nhà, góc phố đều được mở thông và trở thành một vị trí chiến đấu ngoan cường, dũng cảm khiến cho quân Pháp phải kinh hoàng.

Trong khi già, trẻ, trai, gái, lương, giáo,... sát cánh cùng bộ đội đánh giặc trong từng căn nhà, góc phố, trực tiếp xây dựng công sự, chiến hào, đắp ụ, chướng ngại vật, phá hủy công trình, đường sá ngăn địch, làm trinh sát, thông tin liên lạc, binh vận, địch vận, cứu thương, vận tải,... thì cán bộ, đội viên lực lượng vũ trang tại mặt trận Hà Nội nêu cao tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, với bom ba càng, chai xăng và vũ khí thô sơ đã cùng nhân dân Thủ đô chiến đấu anh dũng suốt 60 ngày đêm (từ ngày 19-12-1946 đến ngày 17-2-1947), đập tan hoàn toàn kế hoạch đánh chiếm Hà Nội trong vòng 24 giờ của địch, góp phần có ý nghĩa thiết thực vào việc tạo điều kiện, thời gian thuận lợi cho cả nước chuyển từ thời bình sang thời chiến. Với nhiều cách đánh sáng tạo, linh hoạt, quân và dân Hà Nội đã bảo vệ cơ quan lãnh đạo của Đảng, tạo điều kiện cho hàng vạn đồng bào ra khỏi thành phố, di chuyển máy móc ra vùng tự do. Cùng với quân, dân Thủ đô, quân và dân Nam Định, Vinh, Huế,... đã phát huy tinh thần tự lực kháng chiến đã chiến đấu quyết liệt, vây chặt quân địch trong thành phố, tiêu hao sinh lực địch, làm chậm bước tiến của chúng, giữ gìn và phát triển lực lượng.

Những biểu hiện trên chính là bằng chứng sinh động và đầy thuyết phục về nghệ thuật khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đặc biệt, nghệ thuật đó còn tạo tiền đề, nền tảng vững chắc và tiếp tục phát huy vai trò to lớn trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trên thực tế, lịch sử đã ghi nhận, chưa có một thời điểm nào của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, sức người, sức của lại được huy động cao độ như chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch này, chúng ta đã huy động: “55.000 cán bộ, chiến sĩ của các Đại đoàn chủ lực, 261.453 dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong, với 18.301.571 ngày công phục vụ chiến dịch, trải dài trên tuyến đường 400 - 500km, 23.056 tấn gạo, 266 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm, 907 tấn thịt, 917 tấn lương thực khác… và hơn 20.911 xe đạp thồ; 736 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ; 3.130 chiếc thuyền” cùng các phương tiện vận tải khác để phục vụ chiến dịch. Những con số trên có ý nghĩa thật to lớn đối với một đất nước còn hết sức nghèo nàn, lạc hậu lại đang phải tiến hành một cuộc kháng chiến cứu nước quyết liệt và trường kỳ như Việt Nam.

Trong khi đó, đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng chính từ Lời kêu gọi này mà toàn dân tộc Việt Nam lại ra trận, đoàn kết xông lên đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào. Thật hiếm khi nào sức mạnh toàn dân lại được thể hiện đầy đủ, toàn diện và phát huy cao độ như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quân và dân hai miền Nam - Bắc đã cùng kề vai, sát cánh chiến đấu vì sự nghiệp chung - xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trong đó, đồng bào, chiến sĩ miền Bắc ngày đêm chiến đấu, hy sinh để bảo vệ miền Bắc và chi viện sức người, sức của cho miền Nam với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Trên thực tế, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc đã tiến hành động viên quy mô lớn và liên tục nhân tài, vật lực chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Ngoài nhân lực cung cấp cho lực lượng vũ trang, nhu cầu về nhân lực của nhiều ngành phục vụ trực tiếp cho chiến tranh cũng tăng lên rất lớn. Tính đến năm 1972, tổng số lao động của miền Bắc được động viên đã lên tới 2,5 triệu người, chiếm 11% dân số miền Bắc. Trong thời gian diễn ra các cuộc tiến công chiến lược (năm 1968, 1972 và 1975), số nhân lực động viên thường vượt quá số lao động xã hội, 71% số hộ gia đình ở miền Bắc có người thân chiến đấu trên các chiến trường; nhiều gia đình hai thế hệ cha, con cùng chiến đấu ở miền Nam. Cùng với đó, hàng vạn cán bộ dân chính, đảng, nhân viên kỹ thuật, thanh niên xung phong đã được cử đến các vùng giải phóng để tăng cường cho Đảng bộ và chính quyền cách mạng, nhanh chóng ổn định tình hình.

Rõ ràng, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng súc tích, giản dị, đanh thép, như tiếng kèn xung trận, có sức cổ vũ, động viên và tổ chức lực lượng kháng chiến vô cùng mạnh mẽ. Trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy, dân tộc ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, từng câu từng chữ trong Lời kêu gọi kháng chiến thiêng liêng đã nhanh chóng thấm nhuần sâu sắc vào tâm khảm của các tầng lớp nhân dân, trở thành hiệu lệnh làm sục sôi khí thế đấu tranh bằng sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ của người Việt Nam với mọi thứ vũ khí có sẵn, với một ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, và với một thái độ dứt khoát “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

2- Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ra đời cách đây đã 71 năm, đất nước ta đã trải qua nhiều sự kiện chính trị lớn và tiến những bước dài, tình thế đã có nhiều thay đổi, nhưng Lời kêu gọi thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam hôm nay; ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của nó vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt trong đó, bài học về khơi dậy, tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.

Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Thực chất, đây cũng là sự nghiệp cách mạng sáng tạo to lớn của nhân dân ta, rất vẻ vang nhưng cũng đầy khó khăn, thử thách, nhiều phức tạp. Vì vậy, để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp vĩ đại này, đòi hỏi phải tạo ra sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Từ bài học kinh nghiệm về nghệ thuật phát huy sức mạnh toàn dân trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, đòi hỏi quan trọng hàng đầu là phải làm tốt việc khơi dậy, tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân, thông qua những sách lược, định hướng mang tính khoa học, những giải pháp đồng bộ, thiết thực và khả thi. Cụ thể là:

Trước hết, tạo sự chuyển biến sâu sắc trong tư tưởng và thực hiện nhất quán trong hành động của từng cán bộ, đảng viên quan điểm mấu chốt “dân là gốc”, “cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ”. Đồng thời, chú trọng xây dựng và thực hiện các chính sách bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội; huy động sức dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân; phát huy dân chủ gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, tích cực chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều sống trong môi trường an toàn, an ninh và được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới.

Hai là, tiếp tục thể chế hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành những cơ chế, chính sách, quy chế, quy định, biện pháp cụ thể để nhân dân phát huy quyền làm chủ một cách đầy đủ trên thực tế và thực hiện tốt trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách và các hình thức tổ chức để nhân dân được phát huy quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; khắc phục mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, coi nhẹ dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Mặt khác, tạo cơ hội và điều kiện để các tầng lớp nhân dân phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát triển sản xuất, kinh doanh làm giàu chính đáng, mang lại lợi ích cho mình và cho đất nước.

Ba là, thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương. Thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu và tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm những khó khăn, vướng mắc, những bức xúc và nguyện vọng chính đáng của người dân, đặc biệt là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đất đai, môi trường,... Xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.


Bốn là, mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, phát huy ngày càng tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục xây dựng và củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong điều kiện mới, thực hiện tốt phương châm “lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng, tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc”, tăng cường sự đồng thuận xã hội, đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngoài ra, tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; chủ động đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, phản động chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc hòng gây mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước./.

Những điều cần biết về lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

Ra đời trong thời khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc. Đã 71 năm trôi qua (19-12-1946 - 19-12-2016) nhưng lời kêu gọi bất hủ có giá trị lịch sử sâu sắc đó đã trở thành một văn kiện, một bản thiên cổ hùng văn, trường tồn cùng lịch sử Việt Nam trong thời đại mới.

Trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng tổ chức cuộc họp mở rộng khẩn cấp tại Vạn Phúc, Hà Đông do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì; quyết định chủ trương phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước; đề ra đường lối, chủ trương kháng chiến chống Pháp xâm lược là kháng chiến lâu dài. Ngay đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Lời kêu gọi chỉ có 19 dòng, 199 từ ngắn gọn và súc tích, nhưng đã thể hiện những quan điểm cốt lõi của Người về kháng chiến toàn dân cũng như mệnh lệnh của non sông, thôi thúc cả dân tộc chung sức, đồng lòng vùng dậy quyết chiến, quyết thắng quân Pháp xâm lược.

Kế thừa những lý luận trong học thuyết quân sự Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân biệt rõ đâu là chiến tranh chính nghĩa, cách mạng và đâu là chiến tranh phi nghĩa, phản cách mạng. Người cho rằng, quần chúng nhân dân lao động, nếu được giác ngộ và có nhận thức đúng đắn, sẽ ủng hộ và hăng hái tham gia cuộc chiến tranh chính nghĩa. Vì thế, chỉ có chiến tranh chính nghĩa mới có thể huy động, tập hợp được đông đảo quần chúng, được toàn dân tham gia chiến đấu. Có thể thấy, chiến tranh nhân dân do toàn dân ta tiến hành nhằm giành lại và giữ vững nền độc lập, tự do cho Tổ quốc mình là chiến tranh chính nghĩa. Khẳng định tính chính nghĩa là một trong những nhân tố hàng đầu để đưa cuộc chiến tranh của nhân dân ta đi đến thắng lợi, cho dù phải trải qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, thậm chí kéo dài, “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi độc lập dân tộc và tự do hòa bình là mục tiêu phấn đấu suốt đời mình. Thế nhưng trong điều kiện phải đương đầu với kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự và kinh tế lớn hơn ta nhiều lần, có quân số đông và vũ khí hiện đại, cần phải huy động sức mạnh của toàn dân để chiến dấu. Muốn đánh bại kẻ thù hung bạo, mạnh hơn ta gấp bội thì mỗi người dân Việt Nam đều phải trở thành chiến sĩ đứng lên bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước. Khi nhấn mạnh vai trò của nhân dân, về tính chất chính nghĩa, động lực của cuộc kháng chiến là bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, Người khẳng định: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Bằng sự khẳng định đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định mục đích chính nghĩa của cuộc kháng chiến và lòng tin tưởng của Người vào sức mạnh ý chí bảo vệ độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta.

Từ quan điểm về vai trò của con người trong lĩnh vực quân sự và lòng tin vào sức mạnh của nhân dân - có dân là có tất cả, Người nhấn mạnh, phải dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân. Nhân dân trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân Việt Nam. Người giải thích, toàn dân kháng chiến là ai cũng phải đánh giặc, bất cứ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, ai cũng tham gia kháng chiến. Tổ quốc là Tổ quốc chung, Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do, nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ. Người đã tìm thấy điểm tương đồng, chất keo kết dính các tầng lớp, giai cấp, dân tộc chính là lợi ích tối cao của dân tộc. Đây là nguyên tắc sống còn được Người khái quát ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc: dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc…”. Điều đó thể hiện ý chí toàn thể dân tộc Việt Nam quyết “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải” để bảo vệ nền tự do, độc lập mà Người đã tuyên bố trong Tuyên ngôn Độc lập trước toàn thế giới. Quyết tâm đó dựa trên cơ sở lòng tin vào sức mạnh của nhân dân, vào thắng lợi cuối cùng của cả một dân tộc đồng lòng. Người nhấn mạnh: “Bọn thực dân phải biết rằng dân Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Nhưng nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để giữ gìn quyền độc lập của Việt Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ, thì chúng ta vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến. Vì dân Việt Nam tin chắc rằng thế nào cuộc kháng chiến này cũng thành công”. Quyết tâm đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở khoa học, dựa trên sức mạnh vô địch của đoàn kết toàn dân, truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm quật cường của cha ông ta và chủ yếu nhất, quyết tâm đó dựa trên quyết tâm chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của cả dân tộc bởi “sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc, dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh của dân tộc, thực hiện toàn dân kháng chiến nhưng phải lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Cùng với kêu gọi toàn dân kháng chiến, Người kêu gọi anh em binh sĩ, tự vệ dân quân phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn non sông đất nước. Do đó, khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên. Tư tưởng này đã được Đảng ta vận dụng, phát triển sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Đảng đã tập trung xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Đây chính là phương thức tổ chức lực lượng thích hợp nhất để động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc, kết hợp lực lượng nòng cốt với lực lượng rộng khắp của toàn dân, lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ trên cả nước và từng khu vực để tạo nên sức mạnh lớn nhất tiêu diệt quân thù.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh toàn dân kháng chiến lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt, song Người cũng yêu cầu: “Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi. Muốn thế phải bảo vệ, giúp đỡ, giáo dục nhân dân… phải vận động nhân dân tự nguyện, tự giác, nếu bắt buộc thì chỉ có thể có kết quả tạm thời ngay lúc đó thôi, còn sau đó thì không thấm…” . Theo Người, kháng chiến toàn dân phải đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi thứ vũ khí. Tức là mỗi ngành, mỗi giới, mỗi lĩnh vực công tác, chiến đấu sản xuất, công tác đều nỗ lực tạo ra hiệu quả to lớn để phục vụ cuộc kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt một cách dễ hiểu về tính toàn diện của cuộc kháng chiến: Nó lấy vũ lực ta không sợ, nó lấy chính trị ta không mắc mưu, nó lấy kinh tế phong tỏa thì ta lấy kinh tế đánh nó. Ở tiền tuyến, chiến sĩ hy sinh xương máu để bảo vệ non sông. Ở hậu phương, toàn dân gia sức tăng gia sản xuất… thế là đồng bào hậu phương cùng ra sức tham gia kháng chiến. Người kêu gọi: “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.

Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu thế hội nhập quốc tế; những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định, bất trắc, khó lường của tình hình thế giới; sự xuất hiện loại hình chiến tranh mới, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao, đất nước đang đối mặt nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen những khó khăn, thách thức gay gắt. Trong điều kiện đó, “tính linh hoạt” của nền quốc phòng toàn dân trong giai đoạn hiện nay phải trở nên rất cao, nhiệm vụ quốc phòng được mở rộng. Nền quốc phòng toàn dân vừa phải có khả năng ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch, vừa phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phải có đủ sức mạnh ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, đáp ứng mọi yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


Trải qua 71 năm nhưng khí thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã đi vào lịch sử, trở thành dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trước những thăng trầm của thời gian, giá trị lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng và toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ, đồng bào kề vai sát cánh, chung sức, đồng lòng. Quán triệt quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...