Tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội hết sức phong phú, bao gồm tất cả các
lĩnh vực: Quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và trong mọi nhiệm vụ của quân
đội như xây dựng, huấn luyện, chiến đấu, lao động sản xuất và công tác. Đặc biệt,
Người hết sức quan tâm đến xây dựng phẩm chất cách mạng cho Quân đội nhân dân
Việt Nam, đặt nó lên hàng đầu ngay từ khi quân đội ta ra đời và trong suốt quá
trình phát triển.
Trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chúng ta đã từ xây dựng lực lượng vũ
trang phân tán ở các địa phương tiến lên xây dựng đơn vị tập trung và từ du
kích chiến tiến lên vận động chiến. Vấn đề xây dựng chính quy và tinh nhuệ cũng
sớm được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặt ra để định hướng ngay từ đầu công
cuộc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Về trang bị vũ
khí cho quân đội thì lấy theo phương châm của địch đánh địch và chủ yếu là dựa
vào sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đảng ta đã tranh thủ những
phương tiện kỹ thuật và vũ khí hiện đại được viện trợ để trang bị cho các binh
chủng nhằm nâng cao sức chiến đấu của quân đội, bảo đảm giành thắng lợi trong
cuộc chiến tranh.
Khi đế quốc Mỹ
nhảy vào miền Nam Việt Nam, vấn đề xây dựng một quân đội có đầy đủ phẩm chất và
năng lực để tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi được đặt ra
một cách cấp thiết. Một lần nữa, phương châm xây dựng quân đội trong tình hình
mới lại được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đặt ra trong
các hội nghị, thảo luận, ra nghị quyết lãnh đạo và triển khai tổ chức thực hiện.
Trong các hội nghị này, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam đã được thể hiện trong kết luận của Người.
Tư tưởng đó
cũng đã được Người thể hiện trong các bài viết, bài nói của Người, nhất là
trong các huấn thị nhân các buổi nói chuyện với cán bộ trung cấp, cao cấp, các
bức thư gửi cho quân đội vào những ngày lễ lớn. Tùy theo yêu cầu của từng thời
điểm, từng bối cảnh mà Người diễn đạt, nhưng tựu trung, phương châm đó có bốn nội
dung cơ bản sau đây: Xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệvà từng
bước hiện đại. Bốn nội dung này có quan hệ mật thiết với nhau, làm tiền đề cho
nhau và hợp thành một chỉnh thể thống nhất trong phương hướng xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Xây dựng bản
chất cách mạng cho Quân đội, đây là nội dung cơ bản nhất, được Người đặt lên
hàng đầu trong phương châm xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, vì nó thể hiện
sự giác ngộ chính trị của quân đội và là nền tảng để tạo ra tính chính quy,
tinh nhuệ và tiến lên hiện đại. Nó là cơ sở để xây dựng quân đội ta: trung với
Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng”1.
Trong nội dung
này, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm, tư tưởng và hoạt động thực
tiễn để tạo ra nó.
1. Người chỉ
ra rằng, phẩm chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ được tạo ra từ
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự lãnh đạo đó phải thực hiện đúng nguyên tắc:
tuyệt đối, trực tiếp và về mọi mặt.
Theo Người, sự
lãnh đạo đó phải tuyệt đối, vì rằng, trong những điều kiện lịch sử nhất định, về
sách lược có thể có sự liên hiệp trong mặt trận, trong chính quyền nhưng đối với
quân đội, công cụ bạo lực của cách mạng, thì Đảng phải là người duy nhất nắm
quyền lãnh đạo và không thể phân chia quyền lãnh đạo cho bất cứ một lực lượng
chính trị nào, một cá nhân nào.
Sự lãnh đạo đó
phải trực tiếp, không thông qua một khâu trung gian nào cả vì quân đội là một tổ
chức đấu tranh vũ trang và sự thành bại trong chiến tranh, trong chiến đấu phụ
thuộc vào xử lý kịp thời các tình huống, vào việc nắm thời cơ.
Sự lãnh đạo đó
phải toàn diện, bao gồm cả chính trị, tư tưởng và tổ chức; trên mọi lĩnh vực hoạt
động của quân đội: chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật; và trong mọi nhiệm vụ:
xây dựng, huấn luyện, chiến đấu, lao động sản xuất và công tác.
2. Để thực hiện
sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, Người xác định phải thành lập chế độ
công tác đảng - công tác chính trị trong quân đội và coi việc tiến hành công
tác đảng - công tác chính trị là nguyên tắc cơ bản của sự nghiệp xây dựng quân
đội.
Công tác đó là
một bộ phận của công tác xây dựng Đảng và vận động quần chúng của Đảng nói
chung, là sự vận dụng những nội dung của công tác xây dựng Đảng và công tác vận
động của Đảng vào một tổ chức quần chúng đặc thù, tổ chức quần chúng cầm súng đấu
tranh vũ trang.
Công tác đó có
hai nhiệm vụ:
- Xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đạo đức và phong cách, thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách, phê bình
và tự phê bình, bảo đảm cho tổ chức đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức
lãnh đạo quân đội hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Ở đây có điểm cần chú ý
là, từ trước đến nay, ta thường nói xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Thực tiễn hiện nay của công tác xây dựng Đảng
đòi hỏi phải chăm lo xây dựng đạo đức, nhất là đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”, tính tiền phong gương mẫu và phong cách sát người, sát việc và dân
chủ cho cán bộ, đảng viên.
- Hoạt động
chính trị trên mọi lĩnh vực của đời sống quân đội để thực hiện sự lãnh đạo một
cách toàn diện và lấy xây dựng quân đội về chính trị làm nền tảng cho xây dựng
bản lĩnh và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
3. Xây dựng
quân đội về chính trị là xây dựng phẩm chất cách mạng cho quân đội. Người đã chỉ
ra cho chúng ta những hoạt động sau đây để xây dựng phẩm chất đó:
a) Xây dựng bản
chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc cho quân đội. Ở đây, Người
đã kết hợp một cách thực sự khoa học vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc.
Quân đội bao
giờ cũng mang bản chất giai cấp của giai cấp tổ chức ra và lãnh đạo nó. Quân đội
nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu và cùng nhân dân
tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cho nên Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của
giai cấp công nhân, đồng thời là quân đội của nhân dân các dân tộc trên đất nước
Việt Nam.
Bản chất giai
cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc thống nhất làm một và hợp thành bản
chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Việc xây dựng bản chất giai cấp
công nhân sẽ giúp cho Quân đội nhân dân Việt Nam có phương hướng chính trị rõ
ràng, làm nền tảng cho xây dựng sức mạnh chiến đấu của quân đội. Bản chất giai
cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc hợp thành một chỉnh thể nhưng trong
đó bản chất giai cấp công nhân là cái cốt lõi, là nền tảng, là cái quyết định.
Vì rằng, việc phát huy tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội cũng phải dựa
trên lập trường của giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân đưa lại
tính khoa học cho việc xây dựng và phát huy tính nhân dân, tính dân tộc của
quân đội và ngược lại, việc phát huy tính nhân dân, tính dân tộc làm cho bản chất
giai cấp công nhân thêm phong phú và hài hoà với truyền thống bất khuất và các
truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
b) Chăm lo
giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, điều lệnh quân đội, giáo dục lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử
Quân đội3.
Chủ nghĩa Mác
- Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến nhất trong
thời đại ngày nay - là nền tảng tư tưởng của Đảng, là vũ khí lý luận, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng ta, của quân đội ta. Nó trang bị cho Quân đội nhân
dân Việt Nam thế giới quan cách mạng, phương pháp luận khoa học để tiếp thu đường
lối, chính sách của Đảng và xem xét, đánh giá hiện thực khách quan để giải quyết
công việc và hoạt động thực tiễn cho phù hợp với quy luật khách quan.
Trên cơ sở những
nội dung giáo dục trên đây mà xây dựng cho quân đội mục tiêu, lý tưởng chiến đấu,
lập trường chống kẻ thù xâm lược, xây dựng tinh thần yêu nước nồng nàn, căm thù
giặc sâu sắc, lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, với nhân dân, với sự lãnh đạo
của Đảng, xây dựng tinh thần triệt để chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh quân đội, mệnh lệnh của người chỉ
huy, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi ác liệt của chiến tranh, mọi thử
thách của bão táp cách mạng, cương quyết hoàn thành mọi nhiệm vụ.
c) Chăm lo xây
dựng đoàn kết nội bộ quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”4. Đoàn kết nội bộ quân đội
là yếu tố tạo thành sức mạnh và là nguồn gốc mọi chiến thắng của Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Tình đoàn kết
keo sơn trong Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng trên cơ sở quán triệt đường
lối, mục tiêu cách mạng của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, từ đó
khẳng định rõ, cán bộ và chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam là chủ thể của
sự nghiệp quân sự, bình đẳng về chính trị và nhân cách. Tình đoàn kết đó còn được
xây dựng trên cơ sở quán triệt và thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân
chủ. Người chỉ ra quân đội là một tổ chức quân sự có nguyên tắc tập trung dân
chủ nghiêm ngặt “quân lệnh như sơn” nhưng Quân đội nhân dân Việt Nam là một tổ
chức cách mạng, có dân chủ rộng để phát huy trí tuệ của mọi người vào sự nghiệp
quân sự. Dân chủ là nền tảng của tập trung. Dân chủ có rộng thì tập trung mới cao,
kỷ luật mới nghiêm minh và kỷ luật nghiêm minh là điều kiện bảo đảm cho dân chủ
rộng.
Tình đoàn kết
còn được xây dựng thông qua tự giác phê bình và tự phê bình, nhìn thẳng vào sự
thật, vạch rõ ưu điểm để phát huy, khuyết điểm để khắc phục. Nhờ phê bình và tự
phê bình mà cá nhân và đơn vị hoàn thành nhiệm vụ ngày càng tốt hơn, tình đoàn
kết thống nhất nội bộ ngày càng chặt chẽ hơn.
Nhờ xây dựng
đoàn kết nội bộ mà quan hệ cán bộ và chiến sĩ, cấp trên và cấp dưới, giữa chiến
sĩ với nhau là mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, thương yêu nhau như
ruột thịt. Mọi người chăm lo cho nhau về đời sống vật chất, tinh thần, dành thuận
lợi cho nhau, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Nhờ vậy, cuộc sống trong “đại
gia đình” quân đội, dù ở tiền tuyến hay ở hậu phương đều chứa chan tình đồng
chí, đồng đội, đùm bọc lẫn nhau, giúp nhau để cùng nhau tiến bộ.
d) Chăm lo xây
dựng đoàn kết quân dân. Người quan tâm giáo dục cho quân đội nhận rõ họ từ nhân
dân mà ra, là con em của các dân tộc trên đất nước Việt Nam, tập hợp nhau lại
dưới ngọn cờ cứu nước, cứu dân của Đảng Cộng sản Việt Nam, là quân đội của dân,
do dân và vì dân. Vì vậy, quân đội phải trung với nước, hiếu với dân và vì nhân
dân mà hy sinh chiến đấu.
Quân đội nhân
dân Việt Nam lấy lòng dân làm điểm tựa và một khi được nhân dân đùm bọc thì khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Đoàn kết gắn
bó với nhân dân, cùng với nhân dân chiến đấu chống kẻ thù xâm lược là mục tiêu,
lý tưởng, là vấn đề thuộc bản chất của cán bộ, chiến sĩ ta nên không một ai được
vi phạm.
Nhờ xây dựng
được tình đoàn kết chiến đấu mà Quân đội nhân dân Việt Nam hết lòng thương yêu
dân, quý trọng dân, bảo vệ dân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giúp đỡ
dân tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống và chăm sóc sức khỏe của nhân dân.
Quân đội không
đụng đến cái kim, sợi chỉ của dân nên được dân tin, dân yêu, dân quý, chưa đến
thì dân mong, khi đi thì dân nhớ và nhân dân trìu mến gọi quân đội ta là “Bộ đội
Cụ Hồ”.
Nhân dân hết
lòng săn sóc, nuôi dưỡng quân đội. Mọi nơi trú quân, mọi chặng đường hành quân,
mọi trận đánh, từng bước trưởng thành của quân đội đều có công sức của nhân dân
đóng góp. Nhân dân là “tường đồng, vách sắt” che chở cho quân đội và sức mạnh của
nhân dân đã nhân sức mạnh của quân đội lên nhiều lần để chiến thắng kẻ thù.
đ) Chăm lo
đoàn kết quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: quân đội ta chẳng những có lòng
yêu nước nồng nàn mà còn phải có tinh thần quốc tế cao cả, đoàn kết với quân đội
và nhân dân hai nước Lào và Campuchia, đoàn kết với quân đội và nhân dân các nước
xã hội chủ nghĩa anh em trước đây. Người giáo dục quân đội ta “giúp bạn là tự
giúp mình”, coi sự nghiệp của bạn như chính sự nghiệp của mình, coi đoàn kết ba
nước Đông Dương là vấn đề chiến lược của cách mạng ba nước và thường xuyên đấu
tranh chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa sôvanh nước lớn. Nhờ vậy,
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược,
Quân đội nhân dân Việt Nam đã sát cánh với quân đội và nhân dân Lào, Campuchia
cùng chống kẻ thù chung, đập tan âm mưu chia rẽ ba nước Đông Dương để thôn tính
của kẻ thù và nhờ đoàn kết với quân đội và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa
anh em trước đây mà Quân đội nhân dân Việt Nam đã được giúp đỡ về kinh nghiệm
chiến đấu, về trang bị vũ khí nên sức mạnh được nhân lên.
e) Chăm lo
giáo dục tính nhân văn, lòng nhân đạo khi đối xử với quân đội đối phương. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã giáo dục Quân đội nhân dân Việt Nam công tác “đánh vào lòng người”,
tiến hành công tác binh địch vận và thực hiện nghiêm chỉnh chính sách nhân đạo
của Đảng và Nhà nước ta đối với tù hàng binh, thương binh địch. Binh địch vận,
theo quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, về thực chất là công tác vận
động quần chúng. Đây là mũi tiến công rất quan trọng vì sự nghiệp của chúng ta
là chính nghĩa, hành vi xâm phạm của kẻ địch là phi nghĩa và phần lớn binh sĩ
trong hàng ngũ quân đội địch là những người lao động nhưng do bị đầu độc hay vì
kinh tế mà phải cầm súng chống lại cách mạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét