Cách đây 71
năm, để bảo vệ nền độc lập, tự do cho đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đó là lời hịch non sông, kêu gọi toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta đoàn kết, đứng lên chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.
Thời gian đã lùi xa, nhưng lời hiệu triệu đó vẫn còn nguyên giá trị.
Ngày
23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta
lần thứ hai, rồi từng bước mở rộng đánh chiếm Nam Bộ, Nam Trung Bộ. Vừa chỉ đạo
quân dân miền Nam chiến đấu chống quân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Chính phủ,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đàm phán, nhân nhượng để tìm kiếm
giải pháp hòa bình. Nhưng mọi cố gắng của ta đều bị thực dân Pháp khước từ. Với
trách nhiệm trước Tổ quốc, trước nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược.
Ngày 12-12-1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn quốc kháng chiến; ngày
19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đó là
văn kiện chính trị quan trọng, có giá trị lịch sử và hiện thực sâu sắc.
Giá trị lịch
sử
Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến khẳng định khát vọng hòa bình, ý chí và quyết tâm sắt đá bảo
vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Trong dòng chảy liên tục của lịch sử
dựng nước và giữ nước, mong muốn hòa bình để dựng xây đất nước là khát vọng
cháy bỏng của cả dân tộc Việt Nam. Mở đầu Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng
quyết tâm cướp nước ta lần nữa”.. Khát vọng hòa bình của nhân dân ta sẽ
không bao giờ có được khi kẻ thù có dã tâm xâm lược nước ta. Cho nên, Người
khẳng định rõ ý chí, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta trong bảo vệ nền độc lập, tự do - thành quả của Cách
mạng Tháng Tám vừa giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Lời khẳng định
đó là sự kết tinh của truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam; là sự tiếp nối ý chí và quyết tâm “Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập” đã được Người khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập.
Đây là lời hịch
cứu nước, có tác dụng cổ vũ, thôi thúc và động viên toàn dân nhất tề đứng lên đánh
giặc. Để huy động sức mạnh, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh kêu gọi “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người
trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Lời hiệu triệu
của Người là tiếng gọi thiêng liêng của non sông, đất nước, thôi thúc
cả dân tộc bước vào cuộc chiến đấu mới.
Đáp lại Lời
kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc đã nhất tề đứng lên
kháng chiến với ý chí “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Tại Hà
Nội, sau hiệu lệnh nổ súng, Vệ quốc đoàn và Tự vệ đồng loạt tiến
công các mục tiêu trong trung tâm Thành phố. Phối hợp với bộ đội, các
tầng lớp nhân dân tích cực tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu,
tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp chặn địch. Cùng với
quân, dân Thủ đô, quân và dân các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra, như:
Đà Nẵng, Huế, Vinh, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang,... cũng
nổ súng tiến công giam chân địch trong các thành phố, thị xã, giành
được thắng lợi bước đầu. Ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, lực lượng
vũ trang và nhân dân đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch
bình định, kiềm chế không cho địch đưa lực lượng chi viện cho Trung Bộ
và Bắc Bộ. Cuộc chiến đấu quyết liệt, anh dũng của quân và dân ta
trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã giành được những thắng lợi
quan trọng, làm thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân
Pháp. Như vậy, Lời kêu gọi đã hiệu triệu, động viên và khơi dậy tinh thần
yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất của toàn dân tộc để chúng ta làm
nên những thắng lợi bước đầu, tạo nền tảng cho những chiến công oanh liệt về
sau, đi đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc.
Lời kêu gọi đã
phác họa những nét cơ bản về đường lối chống thực dân Pháp, góp phần chỉ
đạo, định hướng cho cuộc kháng chiến giành thắng lợi. Cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ trong tương quan lực lượng
có lợi cho địch. Để giành thắng lợi, chúng ta phải lấy nhỏ đánh lớn,
lấy ít địch nhiều. Nắm chắc vấn đề đó, với tầm nhìn thấu suốt, nên trong Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ những nét cơ bản
của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp: toàn dân, toàn diện, lâu dài
và tự lực cánh sinh. Người chỉ rõ lực lượng tham gia kháng chiến là toàn dân
tộc, bao gồm mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không phân biệt tôn giáo, đảng
phái; đánh Pháp bằng bất cứ thứ vũ khí gì có thể; đồng thời, Người cũng chỉ
rõ cuộc chiến sẽ rất gian lao, lâu dài, phải trải qua gian khổ, hy
sinh, nhưng thắng lợi cuối cùng “nhất định về dân tộc ta”.
Như vậy,
trong khuôn khổ ngắn gọn, nhưng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là
văn kiện quan trọng, mang tính chỉ đạo không chỉ trong những ngày đầu,
mà còn có tác dụng định hướng cho sự phát triển của cả cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp cũng như về sau. Trên cơ sở tư tưởng đó, kết hợp
với hoạt động thực tiễn, Đảng ta từng bước hoàn chỉnh thành đường lối,
chỉ đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi.
Giá trị hiện
thực
Bảy mươi năm
đã trôi qua, lời hịch thiêng liêng kêu gọi toàn dân tộc đoàn kết, đứng lên chiến
đấu, giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ đã
để lại những bài bài học sâu sắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định:
“… tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa nhân dân và Đảng, Nhà nước tạo sinh lực mới của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc”. Theo đó, để thực hiện thành công mục tiêu trên, tạo sức
mạnh to lớn cho công cuộc đổi mới, chúng ta cần quán triệt và từng bước hiện thực
hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, coi đó là điểm
tương đồng để thống nhất về chính trị, tư tưởng trong toàn xã hội. Đồng thời,
thực hiện đoàn kết mọi tầng lớp, lực lượng trong xã hội, trên nền tảng khối
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; giải
quyết hài hòa các lợi ích làm cơ sở cho sự ổn định, đoàn kết và thống nhất. Bên
cạnh đó, một trong những yếu tố quan trọng là phải xây dựng bộ máy Nhà nước
trong sạch, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả bệnh quan liêu, tham nhũng, tạo
lòng tin trong nhân dân.
Cùng với đó, cần
nêu cao tinh thần chủ động, cảnh giác cách mạng, kiên quyết giữ vững hòa bình, ổn
định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện
nay chịu tác động sâu sắc từ những biến động mạnh mẽ và phức tạp
của tình hình khu vực và quốc tế, nhất là sự chống phá quyết liệt
của các thế lực thù địch trên nhiều lĩnh vực, lại được che dấu trong các
quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, v.v. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với
chúng ta là phải luôn chủ động, tỉnh táo, cảnh giác, kết hợp chặt chẽ,
linh hoạt giữa hợp tác với đấu tranh vì lợi ích cao nhất của đất nước. Phải
phát huy sức mạnh tổng hợp, thế và lực để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột
chiến tranh, kịp thời đối phó với những tình huống gây “đột biến”, cần
có kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát
hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi. Có như vậy mới giữ
vững được môi trường hòa bình, ổn định, góp phần tiếp tục đẩy mạnh
sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh
hội nhập vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đồng thời,
Lời kêu gọi còn là bài học sâu sắc đối với việc xây dựng nền quốc phòng
toàn dân vững mạnh trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nền quốc
phòng toàn dân trước hết được xây dựng vì mục đích hòa bình, giữ
gìn sự ổn định để phát triển đất nước. Tư tưởng đó được kế thừa
trong lịch sử dân tộc và được nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ
Chí Minh. Để có được hòa bình, “chúng ta phải nhân nhượng” và quyết
“hy sinh tất cả” để bảo vệ độc lập khi Tổ quốc lâm nguy. Trong giai
đoạn hiện nay, tinh thần đó tiếp tục gợi mở về những biện pháp linh
hoạt, mềm dẻo trong quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế. Đặc biệt,
cần phải biết giữ vững nguyên tắc chiến lược, đồng thời linh hoạt về
sách lược nhằm “thêm bạn, bớt thù”, tránh được các xung đột và
chiến tranh, thực hiện hòa nhập nhưng không “hòa tan” trong quan hệ
quốc tế. Vì vậy, xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới,
đòi hỏi phải xây dựng toàn diện cả về tiềm lực, lực lượng và thế
trận; trong đó, chú trọng xây dựng tiềm lực về chính trị, tinh thần,
phát huy nhân tố con người là yếu tố quyết định.
Tiếp nối
hào khí của bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” thời Lý, “Hịch tướng sĩ”
thời Trần, “Bình Ngô đại cáo” thời Lê Sơ,... Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến là một áng hùng văn bất hủ, chứa đựng những giá trị và
tư tưởng mang tính thời đại, là lời hịch động viên cả nước đứng lên chiến đấu
bằng thái độ kiên định và dứt khoát. Lời kêu gọi còn là bản cương lĩnh kháng
chiến có tính khái quát cao, chứa đựng những quan điểm về đường lối chiến
tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc và khẳng định niềm tin tuyệt đối vào thắng
lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Những tư tưởng cơ bản đó cần tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong giai đoạn mới của cách mạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét