Một trong những
văn bản lịch sử quan trọng nhất của lịch sử dân tộc nói chung, cũng như lịch
sử kháng chiến bảo vệ Tổ quốc nói riêng, là "Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến" do Chủ tịch Hồ Chí Minh chắp bút. Lịch sử Việt Nam-một lịch
sử được viết nên bởi biết bao cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thần thánh,
chắc chắn đã được viết nên bởi những văn bản có tính chất khai sinh và tuyên
chiến, trước và sau chiến tranh. Chính vì vậy, những lời tuyên ngôn độc
lập và những văn bản tuyên bố chiến tranh, kêu gọi nhân dân đứng lên vệ
quốc nghiễm nhiên có vị trí lịch sử hệ trọng. "Hịch tướng sĩ" và
"Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là những văn bản lịch sử vĩ đại
của dân tộc, khẳng định và nhấn mạnh sự bất khuất, ý chí độc lập tự cường
của dân tộc Việt Nam.
Nếu bản
"Tuyên ngôn Độc lập" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc trước Quảng
trường Ba Đình lịch sử ngày 2-9-1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, thì "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" được phát trên
Đài Tiếng nói Việt Nam vào ngày 20-12-1946, là văn bản kêu gọi toàn dân đứng
lên bảo vệ thành quả cách mạng và tuyên chiến với thực dân Pháp. Có lẽ, trong
lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số ít người đã chắp bút
nên nhiều văn bản hệ trọng đối với vận mệnh dân tộc như vậy.
Tuy nhiên, ở
đây chúng ta sẽ không phân tích nhiều về giá trị lịch sử của một văn bản mà
quá nhiều người đã nghiên cứu sâu ở góc độ chính trị, quân sự, đối ngoại…
Điểm nhìn của chúng tôi trong bài viết này xuất phát từ nghệ thuật sử dụng
ngôn từ và giá trị văn chương của văn bản. Vì thời gian cấp bách, khẩn
trương, giặc Pháp lại đã ở ngay trên nước ta, nên hình thức thi pháp của
"Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" được viết theo lối cực hạn
(minimalism), không dài dòng, không có nhiều biện pháp tu từ, ẩn dụ nghệ
thuật. Toàn văn "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" chỉ có chưa
đầy 200 từ, nhưng đã chuyển tải trọn vẹn ý nghĩa thông điệp của nó lẫn mang
những đặc trưng nghệ thuật riêng cho thể loại văn bản này.
Đối với
"Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" thì điều đầu tiên cần làm rõ
đó là ai nói và nói với ai, chủ thể nói phải có chủ thể nghe nhằm tương tác
để tạo nên trường đối thoại. Chủ thể nói không phải là cá nhân Chủ tịch Hồ
Chí Minh, mà là toàn thể dân tộc. Nếu tinh ý, ta sẽ nhận ra đại từ nhân
xưng của người nói trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là
“chúng ta” (Chúng ta thà hy sinh tất cả), chứ không phải “ta” như trong "Hịch
tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn ("Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm
vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa"), cũng không phải là “Trẫm”
như trong Chiếu Cần Vương ("Trẫm đức mỏng, gặp biến cố này không thể hết
sức giữ được, để đô thành bị hãm, xa giá phải dời xa, tội ở mình trẫm cả, thật
là xấu hổ vô cùng"). Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu chọn tâm thế,
tư thế đại diện cho tiếng nói lương tri, yêu nước của toàn thể nhân dân,
không phải với tư cách một người tổng tư lệnh, đứng đầu nhà nước. Do đó, tựa
đề của văn bản là "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" chứ không phải
Hịch như "Chiếu Cần Vương" hay "Hịch tướng sĩ". Việc lựa
chọn ngôi trần thuật nhân xưng này cho thấy tư tưởng trọng dân, tôn dân của
người đứng đầu chính quyền cách mạng. Về đối tượng người nghe, nếu trong
"Hịch tướng sĩ", đối tượng này là quân sĩ, bộ tướng của Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn ("Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền,
không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng
tước; lộc ít thì ta cấp lương"), trong "Chiếu Cần Vương" là
thần dân của thiên tử ("Phúc của tôn xã tức là phúc của thần dân, cùng lo
với nhau thì cùng nghĩ với nhau, há chẳng tốt lắm ư?"), thì trong "Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến", đối tượng người nghe rộng hơn, là toàn
thể nhân dân - công dân Việt Nam. Quan hệ giữa người nghe và người nói trong
"Hịch tướng sĩ"hay "Chiếu Cần Vương" là quan hệ thứ bậc
(chủ nhân nói với nô tài, tướng nói với lính, vua nói với con dân) nên đại từ
thể hiện rõ tính chất quan hệ là “ta”, “trẫm” với “các ngươi”. Ngược lại,
quan hệ người nói và người nghe trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến" là bình đẳng, Bác Hồ đã dùng từ “đồng bào”, “chúng ta” để đối
thoại. Người nghe không bó hẹp trong một tầng lớp nào: “Bất kỳ đàn ông, đàn
bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. "Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến" cũng nhấn mạnh giá trị thiêng liêng của
cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, chứ không chỉ nhấn mạnh vào các giá trị lợi
ích tập đoàn cụ thể. “Chúng ta muốn hòa bình… vì chúng quyết tâm cướp nước ta
lần nữa… Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”. Giá trị nhân văn cao cả của "Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến" nằm ở chỗ nêu rõ giá trị chính nghĩa của cuộc kháng chiến
chống Pháp vĩ đại. Đó là một cuộc đấu tranh của một dân tộc, một đất nước
có chủ quyền để chống lại chế độ thực dân đang muốn nô lệ hóa thuộc địa
một lần nữa.
Sau nhân dân
nói chung, đối tượng nghe được khuôn gọn lại và nhấn mạnh vào trong các lực
lượng vũ trang và tự vệ. Đây hẳn nhiên là đối tượng nghe tất yếu của mỗi bản
kêu gọi kháng chiến, bởi vì lực lượng vũ trang là những người tiên phong và chủ
lực nhất trong mỗi cuộc chiến nhằm bảo vệ Tổ quốc. “Hỡi anh em binh sĩ,
tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến”.
Tuy nhiên,
đối tượng người nghe của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" không
chỉ gói gọn trong phạm vi nhân dân Việt Nam, mà rõ ràng còn hướng đến đối tượng
ngầm ẩn khác trong văn bản, đó là thực dân Pháp. Đối tượng nghe này không
xuất hiện tường minh trên văn bản, nhưng rõ ràng tác giả khi viết đã dự trù
hướng đến đối tượng người nghe này. Vận dụng lý thuyết “người đọc tiềm
ẩn” của nhà bác học Đức W.I-sơ, ta có thể khẳng định trong "Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến", thực dân Pháp là một đối tượng nghe/đọc tiềm
tàng. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến tính toàn dân trong
cuộc kháng chiến, tinh thần quyết tử để Tổ quốc quyết sinh nhằm biểu đạt
lời răn đe mạnh mẽ đến kẻ thù. "Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực
dân Pháp cứu nước". Quyết tâm sắt đá này được thể hiện với kẻ thù như
một tuyên bố có tính cảm tử, sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập,
tự do. “Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải
gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định
về dân tộc ta!”. Chính vì đối tượng nghe ngầm ẩn bao gồm cả thực dân Pháp,
nên lời lẽ, văn phong, giọng điệu của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến" hùng tráng, cương mãnh, gãy gọn, chắc nịch là một lời tuyên
chiến chính thức. "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" như vậy là
một văn bản kép, vừa tuyên chiến cảm tử với kẻ thù (thực dân Pháp), lại vừa
động viên, kêu gọi toàn dân đứng lên đánh giặc. Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí
Minh hiểu rõ vai trò đại đoàn kết dân tộc trong mọi cuộc kháng chiến giữ
nước của dân tộc.
Đối tượng người
nghe cuối cùng của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", đó là toàn
thể cộng đồng quốc tế yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phát ra một thông điệp về ý nghĩa cuộc kháng chiến vệ quốc lần
này của dân tộc Việt Nam. Việt Nam đã cố gắng hết sức nhân nhượng với đế
quốc Pháp nhằm giữ gìn nền hòa bình. Trên thực tế, chúng ta đã nhân nhượng
qua hai lần ký kết "Hiệp định Sơ bộ Việt-Pháp" ngày 6-3-1946 rồi
"Tạm ước Việt-Pháp" ngày 14-9-1946. Đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đã sang tận Pháp để hòa đàm, nhưng kết cục trước dã tâm quá lớn của đế
quốc Pháp, cuộc chiến tranh không mong muốn nhưng tất yếu của Việt Nam
vẫn buộc phải diễn ra để tự vệ và cũng để bảo vệ nền độc lập thiêng
liêng của Tổ quốc. “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta lần nữa”.
Với đa phần
là những câu ngắn, câu đặc biệt mang tính khẳng định, mệnh lệnh:“Không!”, “Hỡi
đồng bào!”, “Kháng chiến thắng lợi muôn năm”…, "Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển tải toàn bộ ý nghĩa lịch
sử của một lời hiệu triệu dân tộc và tuyên chiến với kẻ thù. "Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến" đã thể hiện được tư tưởng, khí chất Hồ
Chí Minh nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Một dân tộc yêu chuộng
hòa bình, dân chủ, nhưng sẵn sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc, “khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Sau 71 năm nhìn lại, "Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến" của Bác Hồ vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và
tư tưởng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét