Tư
tưởng nhân văn, nhân đạo, khoan dung với tù, hàng binh đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện xuyên suốt trong hai cuộc kháng
chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt đều là
máu, người Pháp hay người Việt đều là người”, "Đối với những người Pháp bị
bắt trong cuộc chiến tranh, ta phải canh phòng cho cẩn thận, nhưng phải đối đãi
họ khoan hồng, phải làm cho thế giới, trước hết cho dân Pháp biết rằng chúng ta
chỉ đòi quyền độc lập, tự do, chứ chúng ta không vì tư thù, tư oán; làm cho thế
giới biết rằng chúng ta là một dân tộc thông minh, văn minh hơn bọn đi giết người,
cướp nước", nên Người đã tìm mọi cách để hạn chế tới mức thấp nhất những
thương vong trên chiến trường cho quân ta và cho cả quân địch. Đối với tù binh,
hàng binh Pháp bị bắt trong chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kêu gọi đồng
bào và chiến sĩ phải nêu cao tinh thần chính nghĩa, nhân đạo theo truyền thống
của cha ông: “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”,
đối xử khoan hồng đối với họ. Chính lòng nhân đạo, khoan dung của ta đối đãi với
tù binh, hàng binh đã đã tạo sức thuyết phục, cảm hóa đối với kẻ thù, đã thức tỉnh
lương tri, quy tụ nhiều người lầm lỗi trở về với cách mạng, ủng hộ cuộc đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân ta làm giảm đi nhiều tổn thất trong các cuộc chiến
tranh, nhất là làm dịu mối hận thù trong chiến tranh.
Trong
kháng chiến chống Mỹ, với khoảng 937 ngàn tấn bom đạn thả xuống chiến trường Bắc
Việt Nam, Đế quốc Mỹ đã phá nát các thành phố, làng mạc và các cơ sở công nghiệp,
giao thông, bệnh viện, trường học tàn sát hàng triệu người dân vô tội đặc biệt
phần đông là trẻ em và phụ nữ. Trong đó Chiến dịch Linebacker II từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972 Mỹ đã
thả 3600 tấn bom, đạn xuống Việt Nam làm 1624 dân thường thiệt mạng, trong đó
có Phố Khâm Thiên bị xóa sổ có giết chết 278 người. Theo thống kê phía Mỹ, kể từ
khi viên phi công Mỹ đầu tiên là Everett Alvarez Jr bị bắn rơi và bắt làm tù
binh tại vịnh Hạ Long ngày 5-8-1964 có 325 tù binh thuộc lực lượng không quân.
Chính những phi công này là người trực tiếp đi gieo tội ác. Mặc dù với những tội ác mà những “Giặc trời”
đã gây ra cho đất nước, nhân dân ta vô cùng lớn nhưng chính sách tù hàng bình
chúng ta vô cùng khoan hồng, độ lượng nó thể hiện được tư tưởng “ đem đại nghĩa
để thắng hung tàn” là sởi chỉ hồng xuyên suốt, là truyền thống tốt đẹp ngàn đời
của dân tộc ta.
Chính
sách khoan hồng đối với tù binh của ta được thực hiện một cách nhất quán từ đầu
đến cuối cuộc chiến trong đó có tù binh phi công. Không những không ngược đãi
mà chúng ta quan tâm đặc biệt đến đời sống của họ, tù binh phi công được hưởng
chế độ được ăn uống mức “đặc táo” cao hơn hẳn chế độ của cán bộ, chiến sĩ ta thời
đó. Các tù binh chẳng những được ăn tốt, mà còn được chăm sóc sức khỏe rất chu
đáo. Bị thương khi rơi máy bay hay bị đau ốm, sức khỏe yếu các tù binh được những
bác sĩ giỏi nhất ở các bệnh viện của quân đội đến khám và chữa bệnh chu đáo và
ta còn tổ chức khám sức khỏe cho họ theo định kỳ. Tù binh Mỹ thường xuyên được
tổ chức vui chơi giải trí. Hằng ngày, họ được ra sân phơi nắng, chơi bóng chuyền,
bóng rổ, bi-a, đọc sách báo, nghe tin tức, kể cả tin tức của Mỹ và phương Tây.
Đặc biệt, trong các ngày lễ, ngày Tết của Mỹ như ngày Độc lập Mỹ, ngày Lễ Tạ
ơn, Noel, Tết Dương lịch…, tôn trọng tín ngưỡng của tù binh, ta còn cho mời cả
mục sư đến làm lễ theo nghi thức tôn giáo cho số người theo đạo. Có thời điểm
còn tổ chức cho các tù binh đi tham quan một số di tích lịch sử, văn hóa và
danh thắng của Thủ đô Hà Nội. Khi máy bay B-52 Mỹ tiến hành ném bom rải thảm xuống
khu vực Hà Nội, để đảm bảo an toàn tính mạng phần lớn số tù binh phi công đã được
ta chủ động đưa sơ tán ở một số trại giam để tránh trúng bom.
Chính
những chính sách hết sức khoan hồng của ta đã làm cho những tù binh phi công mỹ
hiểu được tính nhân văn, nhân đạo và hiểu được tính chất của cuộc chiến mà
chính phủ Mỹ đang tiến hành tại Việt Nam. Những thông tin mà tù binh mỹ cung cấp
cho phía ta trước chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” rất có giá trị, góp phần
giúp ta chủ động trong việc chiến đấu bảo vệ bầu trời Hà Nội trong năm 1972. Có
những tù binh có cảm tình sâu sắc với đội ngũ cán bộ quản giáo của ta vì thế
khi biết tin sắp được trao trả về nước họ đã viết đơn xin được tình nguyện ở lại
Việt Nam.
Những
tù binh Phi công Mỹ sau này hầu hết đã trở lại Việt Nam. Nhiều người trong số họ
đã tích cực vận động và có tiếng nói để thúc đẩy bình thường hóa quan hệ giữa
hai nước. Ông John McCain một phi công Hải quân Mỹ từng là tù binh của Việt Nam
sau khi được trao trả năm 1973, là thượng nghị sĩ của Mỹ, một trong những người
năng nổ trong việc hối thúc và vận động chính phủ Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ
ngoại giao với Việt Nam. Trung úy phi công Mỹ Everett Alvarez, là tác giả của
cuốn sách “Chim ưng bị xiềng”, trong đó kể về cuộc sống của ông trong những
ngày bị tạm giam ở Hỏa Lò và những tình cảm trân trọng ông dành cho những người
quản giáo tại đây thời ông là tù binh...
Ông Douglas Brian (Pete) Peterson
là một trong những tù binh phi công tại Việt Nam sau này là một chính
khách và là một nhà ngoại giao Hoa Kỳ, Đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ tại Việt Nam
sau 1975, nhậm chức từ 1997 đến 2001 và rất nhiều người nữa đã góp phần thúc đẩy
mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân dân hai nước.
Chính
những chính sách nhân văn, nhân đạo, khoan dung với tù, hàng binh của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đã đặt nền móng và làm sâu sắc thêm sự hiểu biết lẫn nhau,
làm thắm đượm tình hữu nghị hai dân tộc, góp phần củng cố hợp tác toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực giữa hai nước để cùng hướng tới tương lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét