Đã 71 năm trôi
qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”
(19/12/1946 - 19/12/2017), nhưng âm hưởng hào hùng của lời kêu gọi bất hủ ấy vẫn
mãi trường tồn cùng lịch sử dân tộc Việt Nam, mãi là lời hịch của non sông, một
văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự có giá trị lịch sử trong mọi thời đại, thể
hiện ý thức sâu sắc giá trị của độc lập dân tộc và niềm tin vững bền về con đường
cách mạng mà toàn Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt chiều
dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, toàn thể quốc dân đồng
bào đã nhất tề đứng dậy chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi đất nước trước lời
hiệu triệu sục sôi hào khí “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại
cáo”, khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất Tổ quốc với
chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Kế thừa hào khí chống giặc, giữ nước
trong lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt chèo lái đưa con thuyền
cách mạng vượt qua thác ghềnh “nghìn cân treo sợi tóc” bằng một quyết định quan
trọng, một quyết định thể hiện sự lựa chọn của lịch sử vào ngày 19/12/1946 -
Ngày toàn quốc kháng chiến.
Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nhà nước công
nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch
sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, chính quyền cách mạng về tay nhân dân; nhân dân
lao động đã trở thành người làm chủ vận mệnh dân tộc mình. Song, chính quyền
cách mạng non trẻ đang đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, tình thế cách mạng
lúc này mong manh như “trứng để đầu gậy” phải đối mặt với nhiều kẻ thù cùng
lúc: Giặc đói, giặc dốt và đặc biệt là giặc ngoại xâm.
Ngày
23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã
nổ súng đánh ta ở Nam Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt kêu gọi nhân dân Nam Bộ
và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác ra sức đàm phán với chính phủ
Pháp để cứu vãn hòa bình. Người đã ký với đại diện chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp
định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính phủ
ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Phông-ten-nơ-blô. Cuộc đàm phán thất bại do lập
trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống trị Việt Nam. “Còn nước còn
tát”, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp Tạm ước ngày 14-9-1946. Ngày
16-9-1946, Người rời cảng Tu-lông (Pháp) trở về nước. Ngày 16-10, Người gặp Đắc-giăng-li-ơ
ở vịnh Cam Ranh. Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở
Nam Bộ. Tại Bắc Bộ, cuối tháng 11 năm 1946, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, thị
xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Tại Hà Nội, quân đội thực dân Pháp liên tiếp
nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở Hà Nội trong các ngày 15, 16-12-1946 như đốt
nhà thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm cơ quan Bộ Tài chính và Bộ Giao thông
công chính. Ngày 17-12-1946, quân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò
Đúc, đặc biệt, chúng đã gây ra vụ tàn sát nhiều đồng bào ta ở phố Hàng Bún và
Yên Ninh, gây xung đột đổ máu ở cầu Long Biên, khu Cửa Đông. Ngày 18-12-1946,
tướng Moóc-li-e gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta
phải phá bỏ mọi công sự chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ
chiến đấu và giao quyền kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô Hà Nội cho chúng. Pháp tuyên bố nếu các yêu cầu
trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng 20-12-1946
quân Pháp sẽ hành động.
Trước tình
hình đó, ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung
ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc
kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.
Vào hồi 20 giờ
ngày 19/12/1946, quân dân thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến
trong toàn quốc. Ngày 20/12/1946, tại Hang Trầm (Chương Mỹ, Hà Đông), Đài Tiếng
nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch.
“Hỡi đồng bào
toàn quốc!
Chúng ta muốn
hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân
Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ.
Hỡi đồng bào,
Chúng ta phải
đứng lên!
Bất kỳ đàn
ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo,
dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc,
ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng,
gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ,
tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để
giữ gìn đất nước.
Dù phải gian
lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về
dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm ! kháng chiến thắng lợi
muôn năm.
Hà Nội
ngày 19/12/1946.
Hồ Chí Minh”
Toàn văn “Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng súc
tích, giản dị, đanh thép, có sức cổ vũ, động viên và tổ chức lực lượng kháng
chiến vô cùng mạnh mẽ. Trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy, tình thế hết sức hiểm
nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”, từng câu từng chữ trong lời kêu gọi kháng chiến
thiêng liêng của Bác nhanh chóng thấm nhuần sâu sắc vào tâm khảm nhân dân ta,
khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống yêu nước, anh hùng bất
khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam; là hiệu lệnh làm sục sôi khí thế đấu
tranh bằng sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ của người Việt
Nam với mọi thứ vũ khí có sẵn, với một ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”,
một thái độ dứt khoát và kiên định: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Trong cuộc đấu
tranh chống kẻ xâm lược, không còn con đường nào khác ngoài việc dùng bạo lực
cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng Khi đã buộc phải kháng chiến, Chủ tịch
Hồ Chí Minh kiên quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu:
“Không! Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ”.
Hồ Chí Minh
tuyên bố quyết tâm của nhân dân ta: “Thà hy sinh tất cả, chứ không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”.
Kết thúc lời
kêu gọi, Hồ Chí Minh khẳng định niềm tin tất thắng:
“Dù phải gian
lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về
dân tộc ta.
Việt Nam độc lập
và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng
lợi muôn năm!”
Đúng như dự
báo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau chín năm vào năm 1954 - “Chiến thắng
Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã chứng tỏ sức mạnh của
lòng yêu nước phi thường của quân và dân ta, sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc gian khổ chiến đấu và hy sinh dành lại
một nửa Việt Nam hòa bình làm tiền đề cho một Việt Nam độc lập và thống nhất.
Ba mươi năm sau vào mùa Xuân 30/4/1975, đội quân bách chiến bách thắng của Người
đã cắm cờ chiến thắng lên nóc Đinh Độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh mười
nghìn ngày đem lại độc lập tự do cho dân tộc, Bắc - Nam thống nhất, sum họp một
nhà.
Có thể nói,
ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời
cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán thời điểm nổ súng chính xác, biến bị động
thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân
quân địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng
phát động toàn quốc kháng chiến ngày 19/12 giữa Thủ đô là một trường hợp hiếm
thấy trong lịch sử, thể hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng
thật đúng đắn, quả cảm và sáng tạo.
71 năm đã trôi
qua nhưng khí thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã trở
thành ngày lịch sử, là dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trải qua bao biến cố thăng trầm của thời
gian, nhưng giá trị lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” luôn là kim
chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ, hiệu
triệu quốc dân đồng bào kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, đoàn kết nhất trí
đánh giặc, giữ nước, giành lại độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc. Ngày
nay, Lời kêu gọi thiêng liêng của Bác vẫn mãi giữ nguyên tính thời sự, đó là
giá trị của niềm tin tất thắng, là ý thức sâu sắc giá trị độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH. Sự nghiệp xây dựng CNXH còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhất
định chúng ta sẽ thành công, nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh sẽ ngày càng khẳng định thế và lực quan trọng trong khu vực
và trên trường quốc tế.
Kỷ niệm 71 năm
ngày toàn quốc kháng chiến, đây là dịp để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
ôn lại những bài học sâu sắc của lịch sử, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn
dân, đồng sức chung lòng tạo nguồn động lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, nhanh chóng đưa đất nước bước ra khỏi tình trạng tham nhũng, lãng
phí, nghèo nàn lạc hậu, phát triển bền vững, hội nhập sâu rộng và toàn diện với
nền kinh tế thế giới, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Bác Hồ kính yêu
vẫn hằng mong muốn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét