Sau 71 năm và
sẽ mãi mãi về sau, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Người luôn mang tính
thời sự và giữ nguyên giá trị nhân văn quân sự.
Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) như lời “Hịch” đối
với toàn dân tộc trước họa xâm lăng của thực dân Pháp, nhưng chứa đựng sự giàu
có về giá trị nhân đạo, nhân văn - nhân văn quân sự. Sau 71 năm và sẽ mãi mãi về
sau, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Người luôn mang tính thời sự và giữ
nguyên giá trị đó.
Quá trình lãnh
đạo cách mạng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua nhiều giai đoạn gay
go, phức tạp, nhưng chưa lúc nào gay cấn được ví như “ngàn cân treo sợi tóc”
vào thời điểm cuối năm 1946. Cùng một lúc, dân tộc ta phải đối mặt với nhiều kẻ
thù như: quân Anh, quân Tưởng Giới Thạch, quân Pháp và những đảng phái, các lực
lượng phản động trong nước nổi lên. Chúng cùng có âm mưu chống phá cách mạng,
xóa bỏ chính quyền nhà nước cách mạng non trẻ - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Trung ương Đảng ra “Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến” vào đúng thời điểm gay go, có tính quyết định nhất đến vận mệnh quốc
gia, dân tộc. Có thể tiếp cận giá trị Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ở các
góc độ khác nhau, nhưng nổi lên nhất là: “Giá trị nhân văn quân sự”.
Từ: “Hỡi…” được
dùng ba lần gắn với ba nội dung khác nhau, nhưng thống nhất ở tinh thần thông
báo tình hình nguy cấp, có tính đột biến, khẩn trương để thức tỉnh nhận thức;
nâng tầm cao mới về thái độ, lương tâm, ý chí của mỗi con người Việt Nam. Chữ
“Hỡi” trong mệnh đề đầu tiên là: “Hỡi đồng bào toàn quốc”. Câu văn này gắn với
nội dung thông báo tính khẩn cấp của toàn cục tình hình đất nước, dân tộc. Tiếp
đến là chỉ rõ, khẳng định tinh thần nhân đạo, nhân văn của dân tộc ta: “Chúng
ta muốn hoà bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực
dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”.
Những cụm từ:
“muốn hòa bình”; “phải nhân nhượng”; “càng nhân nhượng” thể hiện một tinh thần
không muốn diễn ra chiến tranh; làm rõ một sự nhân nhượng đến tận cùng để có
hòa bình.
Tinh thần ấy
càng được tôn lên khi đặt trong quan hệ với âm mưu, thái độ thực dân Pháp là:
“Thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Những lời
lẽ “càng lấn tới” ; “quyết tâm cướp nước ta một lần nữa” đã đặt toàn dân tộc, mỗi
con người Việt Nam vào tình huống bức bách phải lựa chọn một trong hai: một là
khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do
và độc lập.
Trước hai sự lựa
chọn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một cách đanh thép bằng một từ:
“Không!...” để thể hiện rõ sự lựa chọn con đường quyết tâm đánh giặc. Từ
“không!” trong mệnh đề có giá trị như một “kích hoạt” vào trạng thái tinh thần
hiện có, để được nhân lên gấp bội lần qua sự thức tỉnh đối với mỗi con người Việt Nam trước họa xâm
lăng. Quyết tâm ấy là: “… Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Bằng nghệ thuật diễn đạt của lời “Hịch”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đẩy quyết tâm đánh giặc của toàn dân tộc lên đến đỉnh
cao nhất.
Những mệnh đề:
“Chúng ta phải đứng lên!”; “Bất kỳ đàn
ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Chữ
“Hễ” vừa dễ hiểu, vừa dễ đi vào nhận thức con người và cũng hàm ý không loại trừ
một ai trong đánh giặc cứu nước.
Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến còn chỉ rõ cách thức cụ thể để bất cứ ai cũng có thể đánh
được giặc: “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”; “Ta
phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước” đã thể hiện rõ một ý
chí quyết tâm; một cách thức thực hiện rất cụ thể và cho phép không loại trừ một
ai. Những nội dung trên, với cách diễn đạt dễ hiểu, nhưng có chất kích thích
tinh thần cách mạng rất mạnh mẽ.
Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến đã nhanh chóng đi vào tâm thức, ý chí, quyết tâm mỗi con
người dân tộc ta. Tinh thần Lời kêu gọi là sự tiếp biến giá trị văn hóa quân sự
trong truyền thống yêu nước đánh giặc lên đến đỉnh cao nhất trong thời đại mới.
Truyền thống của: “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư…” (thời Lý); tiếng hô “quyết đánh”
của các bô lão thời Trần trong Hội nghị Diên Hồng, đặc biệt là “Hịch tướng sĩ của
Trần Quốc Tuấn; tư tưởng về “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước
lo trừ bạo” của Nguyễn Trãi; tinh thần thần tốc: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho
để răng đen (Quang Trung)… đã được hun đúc trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến có sức mạnh tinh thần to lớn - sức mạnh của chủ nghĩa
nhân đạo, nhân văn Việt Nam từ chiều sâu truyền thống, diện rộng của toàn dân,
tầm cao của thời đại. Vì thế, nó trở thành sức mạnh vật chất đánh bại đội quan
viễn chinh của thực dân Pháp kéo dài chín năm bằng trận quyết chiến chiến lược
Điện Biên Phủ.
Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến đã diễn ra 71 năm, nhưng giá trị nói chung và giá trị
nhân đạo, nhân văn quân sự Việt Nam vẫn nguyên giá trị. Nó là trường tồn, đồng
thời luôn có tính thời sự.
Hiện nay, các
thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu đưa dân tộc ta quay về vòng nô lệ mới.
Trong bối cảnh chung ấy, diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; những
nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã đặt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta vào tình huống mới, phải tiếp tục phát huy giá trị từ Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngang tầm thời đại. Hiện nay, chúng ta tập
trung vào khắc phục, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu lực, hiệu quả. Tinh thần Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII: “cả hệ thống chính trị phải vào cuộc”, tức là mỗi con
người Việt Nam phải hành động một cách thiết thực.
Các thế hệ hôm
nay có quyền tự hào về truyền thống hào hùng của các thế hệ cha anh trong thực
hiện “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”, làm nên chiến thắng, đồng thời phải
thể hiện rõ trách nhiệm đối với lịch sử, hiện tại và tương lai đất nước. Là người
Việt Nam thì phải có trách nhiệm ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ ấy bằng sức mạnh
của đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy chủ nghĩa
nhân đạo, nhân văn đến đỉnh cao, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét