Cách đây tròn 71
năm, trước vận mệnh của dân tộc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra một quyết
định lịch sử, chính xác, kịp thời - Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, kêu gọi
toàn dân tộc nhất tề đứng lên, tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Năm tháng đã qua đi, nhưng âm hưởng
hào hùng của Lời kêu gọi vẫn còn mãi với thời gian, để lại cho Đảng và sự nghiệp
cách mạng nước ta những bài học hết sức quý báu, có ý nghĩa to lớn và thiết thực
với công cuộc đổi mới đất nước hôm nay; một trong số đó là bài học khơi dậy,
quy tụ và phát huy sức mạnh toàn dân.
1- Trên cơ sở
kế thừa truyền thống quý báu của cha ông về tập hợp sức mạnh của quần chúng
nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc - truyền thống “cả nước
đồng lòng, toàn dân đánh giặc”, đồng thời vận dụng một cách sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử vào tình
hình và điều kiện thực tế của cách mạng Việt Nam; trong sự nghiệp lãnh đạo cách
mạng nước nhà, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc tập hợp,
khơi dậy và phát huy “sức mạnh vô tận” của quần chúng nhân dân, từ đó tạo thành
sức mạnh tổng hợp để giành chiến thắng, viết nên những trang sử oanh liệt, oai
hùng của dân tộc. Và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã trở thành một trong
những biểu tượng mẫu mực, đỉnh cao của nghệ thuật khơi dậy và phát huy sức mạnh
của nhân dân, sức mạnh toàn dân trong thời đại mới.
Thật vậy, bước
vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, một câu hỏi lớn đặt ra cho Đảng
và nhân dân ta là, chúng ta sẽ tiến hành cuộc kháng chiến như thế nào để có thể
giành được thắng lợi trước một kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế,
khoa học và quân sự,... Với tư duy biện chứng sâu sắc và tầm nhìn chiến lược, Hồ
Chí Minh đã thấy sức mạnh của cuộc kháng chiến ngay ở trong nhân dân. Người chỉ
rõ, “trong cuộc kháng chiến, kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”, và rằng “sự
đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch
hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất
bại”.
Một trong những
thành công nổi bật trong phát huy sức mạnh toàn dân của Đảng ta và Hồ Chí Minh,
được thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là đã khơi dậy điểm tương
đồng, ý thức, trách nhiệm và nghĩa vụ chung của mọi người dân đối với Tổ quốc.
Theo đó, không phải ngẫu nhiên mở đầu Lời kêu gọi Hồ Chí Minh lại dùng cụm từ
“Hỡi đồng bào toàn quốc!” và sau đó Người còn nhắc lại một lần nữa ba từ “Hỡi đồng
bào!”. “Đồng bào” vốn là một khái niệm dùng để gọi những người cùng nguồn cội,
giống nòi, một dân tộc, một Tổ quốc với mình nói chung, với hàm ý có quan hệ
thân thiết như ruột thịt. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh
đã sử dụng thuật ngữ này một cách nhuần nhuyễn, tài tình, đúng cách, qua đó đã
phát huy hiệu quả đích thực, truyền tải và nhân lên sức mạnh to lớn, làm lay động
lòng người, tác động sâu thẳm vào tư tưởng, tình cảm mỗi con người; có tác dụng
thức tỉnh lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, ý chí tự lực, tự cường,
niềm tự hào, ý thức tự tôn dân tộc, sự kiên cường, dũng cảm ở mỗi người Việt
Nam. Từ đó, làm cho mỗi người nhận thức được mình phải làm gì, làm như thế nào
ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến, thiết thực đóng góp vào sức mạnh
toàn dân tộc bảo vệ độc lập, tự do. Đồng thời, quy tụ, tập hợp lực lượng, nguồn
nhân lực, tài lực, vật lực, trí lực,.. để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
Mặt khác, sự
sáng tạo, độc đáo của Hồ Chí Minh trong vấn đề này còn được thể hiện ở việc xác
định và sử dụng lực lượng để phát huy cao nhất sức mạnh toàn dân. Trong đó, Lời
kêu gọi không dừng lại ở việc nêu lên ý thức trách nhiệm chung chung, ở lực lượng
chung chung, mà đã chỉ ra một cách rõ ràng, cụ thể, hợp lý vị trí, vai trò của
mỗi một thành phần, mỗi lực lượng trong xã hội. Người viết: “Bất kỳ đàn ông,
đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc...”.
Điều đó có nghĩa, lực lượng tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mọi
người dân Việt Nam, không phân biệt tuổi tác, giới tính, lương giáo, đảng phái,
dân tộc, thành phần giai cấp, binh sĩ, tự vệ hay dân quân,... Ai cũng đều thấy
rõ bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của mình và phải ra sức chống thực
dân Pháp cứu quốc. Bởi theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổ quốc là
chung, Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do, nếu nước mất thì ai cũng phải
làm nô lệ. Do vậy, đã là người Việt Nam đều có chung một Tổ quốc, đều có nghĩa
vụ và quyền lợi chung là phải đánh giặc, cứu nước. Quyền và nghĩa vụ ấy như một
lẽ tự nhiên, lẽ sống của con người chân chính. Nó khác với thứ nghĩa vụ mang
tính áp đặt, buộc phải tham gia vào một cuộc chiến tranh trong các chế độ mà
người dân không phải là người chủ thực sự của đất nước.
Thực tiễn lịch
sử đã chứng minh, đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của lãnh tụ Hồ Chí Minh,
đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, công nhân Nhà máy Ðiện Yên Phụ phá máy, 20 giờ 3
phút, đèn điện trong thành phố vụt tắt, ít phút sau, pháo binh ta từ pháo đài
Láng bắn dồn dập vào thành. Đó cũng là tiếng súng phát lệnh mở màn cho cuộc
toàn quốc kháng chiến; toàn dân, toàn quân ta nhất tề đứng lên kháng chiến với
tinh thần “mỗi quốc dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài” và với
tư thế đàng hoàng, tự tin, không hề nao núng. Trong đó, tại mặt trận Hà Nội,
nhân dân đã chặt cây, đem toa xe lửa, toa tàu điện ra chất đống ở các ngả đường,
thậm chí mang cả đồ gia bảo như hoành phi, câu đối, tủ, giường, bàn, ghế,... lập
thành chiến lũy để chặn đánh quân thù. Cả Thủ Đô thực hiện “vườn không nhà trống”,
không để cho quân Pháp cướp bóc; mỗi ngôi nhà, góc phố đều được mở thông và trở
thành một vị trí chiến đấu ngoan cường, dũng cảm khiến cho quân Pháp phải kinh
hoàng.
Trong khi già,
trẻ, trai, gái, lương, giáo,... sát cánh cùng bộ đội đánh giặc trong từng căn
nhà, góc phố, trực tiếp xây dựng công sự, chiến hào, đắp ụ, chướng ngại vật,
phá hủy công trình, đường sá ngăn địch, làm trinh sát, thông tin liên lạc, binh
vận, địch vận, cứu thương, vận tải,... thì cán bộ, đội viên lực lượng vũ trang
tại mặt trận Hà Nội nêu cao tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, với
bom ba càng, chai xăng và vũ khí thô sơ đã cùng nhân dân Thủ đô chiến đấu anh
dũng suốt 60 ngày đêm (từ ngày 19-12-1946 đến ngày 17-2-1947), đập tan hoàn
toàn kế hoạch đánh chiếm Hà Nội trong vòng 24 giờ của địch, góp phần có ý nghĩa
thiết thực vào việc tạo điều kiện, thời gian thuận lợi cho cả nước chuyển từ thời
bình sang thời chiến. Với nhiều cách đánh sáng tạo, linh hoạt, quân và dân Hà Nội
đã bảo vệ cơ quan lãnh đạo của Đảng, tạo điều kiện cho hàng vạn đồng bào ra khỏi
thành phố, di chuyển máy móc ra vùng tự do. Cùng với quân, dân Thủ đô, quân và
dân Nam Định, Vinh, Huế,... đã phát huy tinh thần tự lực kháng chiến đã chiến đấu
quyết liệt, vây chặt quân địch trong thành phố, tiêu hao sinh lực địch, làm chậm
bước tiến của chúng, giữ gìn và phát triển lực lượng.
Những biểu hiện
trên chính là bằng chứng sinh động và đầy thuyết phục về nghệ thuật khơi dậy và
phát huy sức mạnh toàn dân từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đặc biệt, nghệ
thuật đó còn tạo tiền đề, nền tảng vững chắc và tiếp tục phát huy vai trò to lớn
trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Trên thực tế, lịch sử đã ghi nhận, chưa có một thời điểm nào của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, sức người, sức của lại được huy động
cao độ như chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch này, chúng ta đã huy động:
“55.000 cán bộ, chiến sĩ của các Đại đoàn chủ lực, 261.453 dân công hỏa tuyến,
thanh niên xung phong, với 18.301.571 ngày công phục vụ chiến dịch, trải dài
trên tuyến đường 400 - 500km, 23.056 tấn gạo, 266 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm,
907 tấn thịt, 917 tấn lương thực khác… và hơn 20.911 xe đạp thồ; 736 xe thô sơ,
914 con ngựa thồ; 3.130 chiếc thuyền” cùng các phương tiện vận tải khác để phục
vụ chiến dịch. Những con số trên có ý nghĩa thật to lớn đối với một đất nước
còn hết sức nghèo nàn, lạc hậu lại đang phải tiến hành một cuộc kháng chiến cứu
nước quyết liệt và trường kỳ như Việt Nam.
Trong khi đó,
đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng chính từ Lời kêu gọi này mà
toàn dân tộc Việt Nam lại ra trận, đoàn kết xông lên đánh cho Mỹ cút, đánh cho
Ngụy nhào. Thật hiếm khi nào sức mạnh toàn dân lại được thể hiện đầy đủ, toàn
diện và phát huy cao độ như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quân và
dân hai miền Nam - Bắc đã cùng kề vai, sát cánh chiến đấu vì sự nghiệp chung -
xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong đó, đồng bào, chiến sĩ miền Bắc ngày đêm chiến đấu, hy sinh để bảo vệ miền
Bắc và chi viện sức người, sức của cho miền Nam với tinh thần “Tất cả vì miền
Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”,
“Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Trên thực tế, trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc đã tiến hành động viên quy mô lớn và
liên tục nhân tài, vật lực chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Ngoài nhân lực
cung cấp cho lực lượng vũ trang, nhu cầu về nhân lực của nhiều ngành phục vụ trực
tiếp cho chiến tranh cũng tăng lên rất lớn. Tính đến năm 1972, tổng số lao động
của miền Bắc được động viên đã lên tới 2,5 triệu người, chiếm 11% dân số miền Bắc.
Trong thời gian diễn ra các cuộc tiến công chiến lược (năm 1968, 1972 và 1975),
số nhân lực động viên thường vượt quá số lao động xã hội, 71% số hộ gia đình ở
miền Bắc có người thân chiến đấu trên các chiến trường; nhiều gia đình hai thế
hệ cha, con cùng chiến đấu ở miền Nam. Cùng với đó, hàng vạn cán bộ dân chính,
đảng, nhân viên kỹ thuật, thanh niên xung phong đã được cử đến các vùng giải
phóng để tăng cường cho Đảng bộ và chính quyền cách mạng, nhanh chóng ổn định
tình hình.
Rõ ràng, Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng súc
tích, giản dị, đanh thép, như tiếng kèn xung trận, có sức cổ vũ, động viên và tổ
chức lực lượng kháng chiến vô cùng mạnh mẽ. Trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy,
dân tộc ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, từng câu từng chữ trong Lời kêu gọi
kháng chiến thiêng liêng đã nhanh chóng thấm nhuần sâu sắc vào tâm khảm của các
tầng lớp nhân dân, trở thành hiệu lệnh làm sục sôi khí thế đấu tranh bằng sức mạnh
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ của người Việt Nam với mọi thứ vũ
khí có sẵn, với một ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, và với một thái độ
dứt khoát “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”.
2- Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến ra đời cách đây đã 71 năm, đất nước ta đã trải qua nhiều
sự kiện chính trị lớn và tiến những bước dài, tình thế đã có nhiều thay đổi,
nhưng Lời kêu gọi thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi
người Việt Nam hôm nay; ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của nó vẫn còn
nguyên giá trị. Đặc biệt trong đó, bài học về khơi dậy, tập hợp và phát huy sức
mạnh toàn dân đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.
Hiện nay,
chúng ta đang tiến hành đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước;
tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Thực chất, đây cũng là sự nghiệp cách mạng
sáng tạo to lớn của nhân dân ta, rất vẻ vang nhưng cũng đầy khó khăn, thử
thách, nhiều phức tạp. Vì vậy, để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp vĩ đại này,
đòi hỏi phải tạo ra sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại. Từ bài học kinh nghiệm về nghệ thuật phát huy sức mạnh toàn dân
trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, đòi hỏi quan trọng hàng đầu là phải
làm tốt việc khơi dậy, tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân, thông qua những
sách lược, định hướng mang tính khoa học, những giải pháp đồng bộ, thiết thực
và khả thi. Cụ thể là:
Trước hết, tạo
sự chuyển biến sâu sắc trong tư tưởng và thực hiện nhất quán trong hành động của
từng cán bộ, đảng viên quan điểm mấu chốt “dân là gốc”, “cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ”. Đồng
thời, chú trọng xây dựng và thực hiện các chính sách bảo đảm công bằng, bình đẳng
xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, tầng
lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của
toàn xã hội; huy động sức dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân; phát huy dân chủ gắn
liền với giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, tích cực chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo
đảm mỗi người dân đều sống trong môi trường an toàn, an ninh và được thụ hưởng
những thành quả của công cuộc đổi mới.
Hai là, tiếp tục
thể chế hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành những
cơ chế, chính sách, quy chế, quy định, biện pháp cụ thể để nhân dân phát huy
quyền làm chủ một cách đầy đủ trên thực tế và thực hiện tốt trách nhiệm và
nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách
và các hình thức tổ chức để nhân dân được phát huy quyền làm chủ trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những
vấn đề lớn của đất nước, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;
khắc phục mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, coi nhẹ dân chủ hoặc dân chủ hình thức.
Mặt khác, tạo cơ hội và điều kiện để các tầng lớp nhân dân phát triển tài năng,
sức sáng tạo, phát triển sản xuất, kinh doanh làm giàu chính đáng, mang lại lợi
ích cho mình và cho đất nước.
Ba là, thực hiện
tốt Quy chế dân chủ cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân tích cực,
chủ động tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa
phương. Thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu và tập trung giải quyết kịp
thời, dứt điểm những khó khăn, vướng mắc, những bức xúc và nguyện vọng chính
đáng của người dân, đặc biệt là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống,
việc làm, đất đai, môi trường,... Xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham
nhũng để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Bốn là, mở rộng
và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, phát huy ngày càng tốt vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc tập hợp,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục xây dựng và củng cố vững chắc
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong điều kiện mới, thực hiện tốt phương châm
“lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng,
tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân
tộc”, tăng cường sự đồng thuận xã hội, đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống
yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở
trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà
nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngoài ra, tiếp tục
thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền
núi; chủ động đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế
lực thù địch, phản động chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc hòng gây mâu
thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét