Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 15 tháng 7, 2017

Cảm nghĩ về Ngày Thương binh, liệt sỹ

Có lẽ hiếm nơi nào trên thế giới mà di chứng chiến tranh để lại nhiều như ở Việt Nam. Dù bất cứ nơi đâu, từ phố phường chật hẹp đến làng quê “cò bay thẳng cánh” đều có những nghĩa trang liệt sỹ ken dày mộ chí. Phần lớn trong số những người ngã xuống mới mười tám đôi mươi, lứa tuổi đẹp nhất cuộc đời. Họ bước vào cuộc chiến với tâm thế của những anh hùng, họ biết đặt cái khát khao giành độc lập, tự do lên trên sinh mạng của chính mình. Nhờ thế, đất nước Việt Nam được định hình trên bản đồ thế giới cũng từ tinh thần hy sinh cao cả ấy.
Chính vì vậy việc tri ân đối với những người, những gia đình có công với cách mạng không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân chúng ta, những con người đang được sống trong một đất nước hòa bình nhờ công sức, xương máu cha, anh đổ xuống, mà đó còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Đó là thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ta.
 Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta đã có rất nhiều câu nói, bài viết và dành những tình cảm đặc biệt đối với những thương binh, bệnh binh, anh hùng, liệt sĩ một trong những bài nói bài viết có thể kể đến: Trong thư gửi cụ Bộ trưởng Bộ Thương binh, Cựu binh nhân ngày Thương binh tử sĩ 27-7-1952, khi nói về trách nhiệm của nhân dân đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, viết: “...Nên coi đó là một nghĩa vụ của nhân dân đối với những chiến sĩ bị thương, bị bệnh; không nên coi đó là một việc “làm phúc”.
Quán triệt quan điểm đó của bác, Đảng và Nhà nước ta và rất nhiều tổ chức, cá nhân đã cùng chung tay trong các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đối với những người, những gia đình có công với cách mạng, được thể hiện qua những hoạt động cụ thể, thiết thực như: chăm sóc, giúp đỡ các gia đình liệt sỹ, thương binh, thanh niên xung phong neo đơn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; tặng sổ tiết kiệm cho Bà mẹ Việt Nam anh hùng; nhận chăm sóc phụng dưỡng thương bệnh binh, gia đình thương binh, liệt sỹ; tu sửa các nghĩa trang liệt sỹ; chăm sóc trẻ em khuyết tật, trẻ em nhiễm chất độc da cam; tổ chức khám bệnh, phát thuốc, tặng quà cho thương, bệnh binh tại các Trung tâm điều dưỡng thương binh nặng; tổ chức các hoạt động về nguồn... Những việc làm ấy, nó không chỉ thể hiện tấm lòng biết ơn đối với những người đã dâng hiến trọn tuổi thanh xuân cho đất nước, mà còn đề cao truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam ta.
Trong tình hình hiện nay các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu chiến lược “ Diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, ngoại giao, quân sự…Trong đó chúng xác định lĩnh vực chính trị tư tưởng là trọng tâm nhằm tuyên truyền xuyên tạc Đảng và Nhà nước ta, nói xấu các đồng chí lãnh đạo đảng, nhà nước, kích động lôi kéo nhân dân ta. Chúng còn tuyên truyền xuyên tạc các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện các chính sách đối với người có công với cách mạng, nhất là trong dịp cả nước ta đang hướng về kỷ niệm 70 năm ngày thương binh liệt sĩ…Là người con đất Việt, được sinh ra trong nền độc lập, tự do của dân tộc, hơn ai hết chúng ta rất hiểu và quý trọng sự độc lập, tự do ấy đã được đánh đổi bằng gì.
Hướng về kỷ niệm 70 năm ngày thương binh liệt sĩ, mỗi một con người Việt Nam chúng ta chắc hẳn đều bộc lộ cảm xúc của mình khác nhau song tất cả đều cùng một mục đích đó là biết ơn những người con đã cống hiến, chiến đấu để cho chúng ta có được hòa bình độc lập hôm nay. Chúng ta tin tưởng và quyết tâm giữ vững nền tự do độc lập ấy.
Là thanh niên, sỹ quan công tác tại học viện chính trị anh hùng, chúng ta phải kiên định chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng hồ chí minh, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, luôn tin tưởng và chấp hành nghiêm những đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nỗ lực phấn đấu học tập, rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời đại mới. Năng động, sáng tạo, luôn là lực lượng xung kích đi đầu trong thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị theo tinh thần của "tuổi trẻ sáng tạo". Có tinh thần hỗ trợ nhau trong công tác cũng như cuộc sống hàng ngày, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Quyết tâm phấn đấu xây dựng đơn vị, xây dựng học viện, quân đội ngày càng vững mạnh.
Thế hệ trẻ chúng ta hôm nay có quyền tự hào về thế hệ cha anh đi tr­ước. Chúng ta hãy noi g­ương các anh hùng liệt sỹ – những ng­ười đã hiến trọn đời mình cho tổ quốc, bằng những hành động cụ thể hãy cống hiến hết sức mình cho tổ quốc, xây dựng đất n­ước ta "ngày càng to đẹp hơn" sánh vai với các c­ường quốc trên thế giới như­ lời chủ tịch hồ chí minh đã căn dặn.

"Một mắt, một tay" đong đầy cảm xúc

Kỷ niệm 70 năm ngày thương binh liệt sỹ( 27/7/1947 – 27/7/2017) là dịp mỗi chúng ta có dịp được tri ân các anh hùng liệt sỹ, chúng ta lại được ôn lại những câu chuyện xúc động về các tấm gương anh hùng liệt sỹ. Trong đó câu chuyện về " Một mắt một tay đong đầy cảm xúc" trong cuốn sách "Tấm gương bình dị mà cao quý" tiêu biểu cho một người thương binh vượt lên mọi hoàn cảnh để vươn lên trong cuộc sống và trái tim anh bao dung, đong đầy cảm xúc bằng việc làm cụ thể.
Người xưa nói: “ giàu 2 con mắt, khó 2 bàn tay ”. Chiến tranh đã lấy đi của anh một con mắt, một bàn tay nhưng bản lĩnh của 1 người lính đã vươn lên chiến thắng bệnh tật và vượt qua bao gian nan thử thách từ cuộc mưu sinh để tạo dựng cho mình một nghề nghiệp ổn định và gia đình đầm ấm sinh hoạt hằng ngày, đó là anh thương binh Nguyễn Văn Minh, quê  anh ở vùng trung du miền núi phía Bắc, Xã Đồng Ích, Huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Anh sống tình cảm và giản dị nhưng anh là 1 tấm gương sáng dành cho những thanh niên khuyết tật có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn càng nhiệt huyết nhân hậu. Anh là thương binh hạng 2/4, là người lính trinh sát đăc công, rời quân ngũ năm 1971 bị thương tật 71%, lấy vợ rồi sinh con. Cuộc sống cơm áo thường ngày đè nặng trên vai người làm cha, buộc anh phải làm nhiều nghề. Từ mò cua, bắt ốc, lấy củi..v..v và trở thành ông chủ khéo tay nhất làng. Nhưng khi anh thấy đồng đội của mình còn những người còn tàn tật, tật nguyền, bị chất độc màu da cam anh đã xin nhận các cháu về nuôi và dạy nghề cho các cháu. Như cháu Nguyễn Văn Linh bị ảnh hưởng chất độc màu da cam, cháu Phí Thanh Huyền bị câm điếc hoàn toàn từ lúc lọt lòng mẹ. Với lòng thương yêu con người, sự kiên trì bền bỉ, phương pháp dạy nghề phù hợp với đối tượng. Anh đã dạy được 2 cháu học được nghề gò hàn ( cơ khí ) để giờ đây 2 cháu đã có cuộc sống ổn định và anh còn cưu mang cho nhiều cháu khác nữa cũng có hoàn cảnh khó khăn, tật nguyền và dạy cho các cháu học được nghề cơ khí và đã tìm việc cho 109 thanh niên khuyết tật ở tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ. Các học viên sau khi học nghề xong đều đủ tiêu chuẩn thi và được cấp giấy học nghề ở Quận Thanh Xuân – Hà Nội, cấp chứng chỉ nghề Nhà Nước. Căn nhà anh ở là một ngôi nhà cấp 4 và bộ bàn nghế salon nan và chiếc giường nằm đã cũ, gia sản đáng giá nhất của anh là hai Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng hai, ba, ba Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng một, hai, ba cùng mười một bằng khen, giấy khen của các cấp được treo ngay ngắn ở trên tường. Anh nói “ dù thân thể không hoàn thiện nhưng mình sống được như ngày hôm nay cũng may mắn lắm rồi, nhiều người lành lặn bươn trải với cuộc sống đã vất vả rồi nói gì đến người khuyết tật; trên thực tế vẫn có thái độ miệt thị với người khuyết tật như một gang nặng, để lại thì tức cắt bỏ thì đau. Chính vì thế tôi hiểu nỗi đau không dễ nói lên lời của những người không lành lặn, vì vậy tôi muốn giúp các anh thanh niên khuyết tật có một cái nghề tự nuôi bản thân. Tôi cảm thấy mình sống có ý nghĩa hơn qua việc làm ấy. Đây là một thương binh hạng 2/4 nhưng đã làm những việc cao cả, một con người có ý chí, nghị lực chiến thắng bệnh tật “ Tàn nhưng không phế”. Hình ảnh một người lính đã chải qua chiến tranh, một người lính trên trận chiến tuyến mới thật kiên cường và tình đồng chí đồng đội thật keo sơn, gắn bó. Tôi càng thấy hình ảnh một người lính cụ Hồ đích thực. Chiến tranh đã làm cho người lính mất đi một con mắt, một bàn tay, khi hòa bình lập lại anh lại bước vào một trận tuyến mới có ý chí sắt đá, không ngừng học tập vươn lên tật nguyền, biết vượt lên chính mình. Không những vậy mà người lính ấy còn biết chia sẻ nỗi đau với những người đồng đội, người tật nguyền, trang bị cho họ những kiến thức sống, tinh thần sống để họ vượt lên chính mình không lạc long với xã hội. Sống làm sao có ý nghĩa thực sự “ tàn nhưng không phế “ không phải là gánh nặng xã hội.
          Câu chuyện này có ý nghĩa giáo dục cho mọi tầng lớp thế hệ. Một con người tật nguyền như vậy mà phải bơn chải cuộc sống, ham học hỏi, cầu tiến bộ, một con người hiền lành giản dị trong sáng của tâm hồn, lành mạnh, chất phác, sống có lý tưởng cao đẹp, lạc quan, lòng nhân ái sâu sắc. Những con người khỏe mạnh hay những người công nhân, nông dân bươn chải với cuộc sống “ cơm áo gạo tiền “ hằng ngày để mưu sinh đã khó còn nói gì đến cưu mang người khác. Thực trạng hiện nay phần lớn người khỏe mạnh mà siêng năng chăm chỉ lao động nuôi con ăn học, không nề hà gì để kiếm tiền mưu sinh. Nhưng cũng có những người mạnh khỏe lại biếng nhác trong lao động sợ khó, sợ khổ, lãng phí thời gian, lãng phí tiền của. Vì vậy mà cuộc sống gia đình rất khổ. Qua câu chuyện “ một mắt, một tay đong đầy việc nghĩa “ chúng ta so sánh với nhân vật Minh trong câu chuyện thì thấy anh Minh không nề hà bất cứ việc gì từ mò cua bắt ốc lấy củi làm nghề gò hàn miễn là nuôi được con. Vì vậy những người mạnh khỏe công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức cần biết quý trọng sức khỏe và phải siêng năng lao động, không sợ khó, sợ khổ, bất cứ việc gì đều làm miễn không vi phạm pháp luật nhà nước vì lao động là vinh quang là điều kiện để tồn tại của con người, lao động đã sáng tạo ra con người. Vậy xã hội bây giờ  những người giàu có có được những phẩm chất, đặc điểm như anh Minh không ? hay chỉ biết đến bản thân mình mà không mở lòng mình để chia sẻ ngọt bùi cùng những người tật nguyền, hoàn cảnh khó khăn. Nói đên tấm gương bình dị mà cao quý chúng ta không thể không nói đến chủ tịch Hồ Chí Minh “ tháp mười đẹp nhất bong sen, Việt Nam đẹp nhất có tên bác Hồ “ Bác đẹp bời trong tư  tưởng của Bác có những phẩm chất hết sức cao quý đó là lòng yêu thương con người vô bờ bến, Bác đã đem cả cuộc đời mình để đấu tranh cho dân tộc ta, để giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, hết lòng phụng sự nhân dân, phụng sự tổ quốc, tinh thần quốc tế vô sản cao cả, ý thức cần cù lao động, lòng nhân ái, tinh thần yêu chuộng khoa học , văn học nghệ thuật, tính chân thực , giản dị, khiêm tốn, tinh thần cương nghị dũng cảm sáng tạo, lạc quan tin tưởng cần kiệm liêm chính chí công vô tư. Bác nói “ muốn giữ được nhân cách, tránh khỏi hư hóa thì phải luôn luôn thực hành bốn chữ mà bác thường nói “ Cần kiệm liêm chính". “ Đem lòng chí công vô tư mà đối với người với việc. Ham làm những việc ích quốc lợi dân, không ham địa vị và công danh phú quý, khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước mà nghĩ đến đồng bào đến toàn dân đã “. Cuốn sách những tấm gương bình dị và cao quý là một trong những nội dung thực hiện chỉ thị số 06 – CT/TW về tổ chức cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để đẩy mạnh việc tuyên truyền, phát hiện những tấm gương tốt để phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên sâu rộng, có tác động lớn đến xã hội góp phần đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta trong thời kỳ mới. Những tấm gương bình dị mà cao quý cho chúng ta thấy rõ một người tuy rất bình thường có thể làm được những việc rất tốt, ai ai cũng có thể làm theo để phấn đấu “ Mỗi người tốt, mỗi việc tốt đều là những bông hoa, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”

          Vậy mỗi chúng ta ở đây được sống trong một môi trường quân đội khuôn khổ. Một môi trường được Đảng, nhà nước, quân đội chăm lo giáo  dục mọi mặt. Một môi trương mà ở đó con người được phát triển toàn diện về phẩm chất năng lực trí tuệ sức khỏe và nhân cách sống. Bản thân chúng ta là những con người may mắn khi được ông trời ban tặng cho thân thể nguyên vẹn thì hà cớ sao không làm được những việc như anh Nguyễn Van Minh trong câu chuyện “ Một mắt một tay đong đầy việc nghĩa”. Vì vậy mỗi chúng ta trước hết phải không ngừng học tập nâng cao trình độ mọi mặt chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ. Rèn luyện ý chí kiên quyết và bền bỉ không sợ khó sợ khổ “ vượt nắng thắng mưa say sưa học tập “, tự bản thân mình khắc phục những khó khăn trong cuộc sống biết quý trọng gia đình, quý trọng lao động, thời gian không nề hà bất cứ việc gì sáng tạo trong công việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao theo cương vị chức trách, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng có trình độ lý luận cao biết đánh giá phân tích đúng sai một cách toàn diện, nhận thức đúng về con đường đi lên chủ nghĩa xa hội ở nước ta, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của đảng và sự nghiệp đổi mới ở nước ta, chấp hành nghiêm pháp luật nhà nước, kỷ luật của quân đội, quy đinh của đơn vị. Không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối sống trong sáng giản dị lành mạnh, không xa hoa lãng phí, tiết kiệm thời gian, công sức lao động, biết quý trọng đồng tiền không bị đồng tiền quyến rũ, không bị lối sống thực dụng lôi kéo, không bị văn hóa đồi trụy tiêm nhiễm, không lô đề cờ bạc, không mê tín dị đoan, sống có văn hóa. Xây dựng tinh thần đoàn kết cao trong đơn vị, quan hệ cấp trên cấp dưới đúng mực, ham học hỏi, học đồng chí đồng đội, cấp trên cấp dưới cầu tiến bộ, có tinh thần thương yêu đồng chí đồng đội, có tinh thần biết chia sẻ với những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,những người bị tật nguyền không xa lánh họ mà hãy sát cánh cùng họ chung sức chung lòng để tìm ra phương pháp để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, động viên họ cả về vật chất và tinh thần. Đồng thời kiên quyết đấu tranh với hiện tượng sai trái trong đơn vị sống  không có lập trường vững vàng, không biết phân biệt đúng sai, tư tưởng trung bình chủ nghĩa sống chỉ biết đến bản thân mình mà không kết hợp hài hào với lợi ích tập thể. Đặc biệt có biện pháp kiên quyết với những con người có lối sống thực dụng, tha hóa về phẩm chất đạo đức lối sống, sống buông thả, xa hoa, lãng phí, sống không biết mình là ai, coi thường mọi người, chống sự miệt thị đối với những người khuyết tật.

Tuổi trẻ nối tiếp tấm gương anh hùng liệt sỹ Phan Đình Giót

         Đất nước ta, với bề dày bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Truyền thống ấy gắn liền với những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ bờ cõi non sông đất nước. Chiến tranh đã qua đi, đất nước hòa bình, nhưng những đau thương mất mát mà chiến tranh để lại thì không gì bù lấp được.
          Những ngày tháng Bảy này, cả nước lại lặng mình tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh cho ngày hòa bình, độc lập và tri ân cho người trở về sau đạn bom khói lửa, gửi lại một phần máu xương nơi chiến trường để bảo vệ bình yên cho Tổ Quốc, cho nhân dân. Chiến tranh đã lùi xa nhưng hình ảnh các anh vẫn sống mãi trong lòng đất mẹ, sống mãi trong các thế hệ chúng tôi hôm nay và mai sau.
Có lẽ từ cái thời còn rất nhỏ hay khi lớn lên, đi học cấp I, cấp II chúng tôi, những người con yêu nước đã biết đến các anh, các chị những người anh hùng dân tộc qua từng lời kể của bà, lời dạy của cha, từ sách báo, thầy cô… Trong ký ức ấy, những câu chuyện về anh hùng liệt sĩ Phan Đình Giót luôn được in đậm trong tôi. Tấm gương chiến đấu hy sinh của anh mãi là biểu tượng cho thế hệ trẻ chúng tôi tiếp bước, noi gương, cống hiến và xây dựng Tổ quốc hôm nay.
       Anh hùng Phan Đình Giót, một con người của sự dũng cảm, mưu trí, lớn lên trên mảnh đất quê hương Hà Tĩnh giàu lòng yêu nước, tự hào dân tộc đã tham gia kháng chiến, đi theo lá cờ của Đảng từ những năm 1950 với lòng căm thù quân giặc cùng chí khí chiến đấu kiên cường.
          Trong lúc cuộc chiến tranh chống Pháp của nhân dân ta đang ngày càng diễn ra ác liệt, ngày 13/3/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh phát động chiến dịch Điện Biên Phủ, và đó cũng là ngày chúng ta mãi mãi không còn nhìn thấy hình bóng của người chiến sĩ Phan Đình Giót. Phan Đình Giót - tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58. Đúng cái ngày lịch sử ấy, chiều ngày 13/3/1954, ta nổ súng tiêu diệt Him Lam. Quân địch chống cự, bắn phá ác liệt, nhưng với lòng dũng cảm kiên cường đồng chí Phan Đình Giót và đồng đội vẫn tiên phong xung kích. Tuy bị thương nặng nhưng Phan Đình Giót vẫn tiếp tục chiến đấu cùng đồng đội. Trong lúc quân ta đang xông lên tiến công thì lô cốt số 3 của địch bắn mạnh vào đội hình của ta khiến nhiều chiến sĩ hy sinh. Đau xót trước sự hy sinh của nhiều đồng đội, Phan Đình Giót cố gắng lê từng bước lên lô cốt số 3 rồi hô vang “Quyết hy sinh vì Đảng vì dân” rướn người lấy đà, lao thân mình bịt kín lỗ châu mai. Anh đã hy sinh, đã về nơi an nghỉ cùng với những thế hệ đàn anh, đàn chị đã hi sinh vì tổ quốc cùng với sự cảm kích và tự hào của biết bao thế hệ về sau. 
          Với những sự hy sinh anh hùng, tràn đầy khí thế “ Đông a “ của những con người làm nên lịch sử, đã góp phần làm nên chiến thắng lịch sử vang dội - Điện Biên Phủ. Một trận đánh được coi là một Ải Chi Lăng - Bạch Đằng - Đống Đa của lịch sử dân tộc. Cả đất nước, cả lịch sử và cả những thế hệ mãi mãi về sau sẽ luôn nhắc đến anh, người anh hùng của dân tộc như một niềm tự hào, tự tôn của dân tộc Việt Nam, một dân tộc hơn 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Lịch sử dân tộc sẽ mãi khắc ghi tên tuổi anh vào những trang vàng của đất nước, của niềm tin, niềm tự hào của mãi mãi những thế hệ về sau.

          Chiến tranh đã qua đi, nhưng tất cả chúng tôi – những người may mắn và hạnh phúc sinh ra trong thời bình không lúc nào nguôi ngoai những mất mát, những nỗi đau mà nó để lại. Những người con anh dũng của Tổ quốc, có người còn sống nhưng cũng có người đã nằm lại với đất mẹ thân yêu. Nhưng những chiến công và tên tuổi của các anh đã trở thành bất tử, khắc ghi vào lịch sử dân tộc và mãi mãi được thế hệ những người Việt Nam tưởng nhớ. Cùng đồng bào cả nước, chúng tôi luôn ghi nhận và tri ân tới những anh hùng, thương binh, liệt sỹ. Chúng tôi nguyện, sẽ tiếp bước con đường mà các anh đã chọn, sống, lao động, học tập, đoàn kết, nỗ lực xây dựng đất nước ta giàu mạnh, phồn vinh, giữ vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.

27/7 “Là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh”

            Ngày 27/7/1947  cách đây 70 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng bào và chiến sỹ cả nước “Là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh” (lúc đầu gọi là ngày thương binh toàn quốc). Người còn căn dặn, họ là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào … Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy.

          Trên thực tế ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã rất quan tâm đến công tác thương binh liệt sĩ. Nhân dân ta vốn có truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, lại được Đảng, Bác Hồ giáo dục và lãnh đạo nên đã dành rất nhiều tình cảm thương yêu và lòng biết ơn của mình cho các thương binh và gia đình liệt sỹ. Đầu năm 1946 “Hội giúp binh sỹ bị nạn” về sau được đổi tên thành “Hội giúp thương binh bị thương” được thành lập ở Thuận Hóa – Huế, ở Hà Nội và một số địa phương khác mà chủ tịch Hồ Chí Minh là hội trưởng danh dự đầu tiên của Hội.

          Chiều ngày 28/5/1946, Hội tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát lớn Thành phố Hà Nội với sự tham gia của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, kêu gọi mọi người gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sỹ bị thuơng, coi đây là một hành vi cứu nước. Trước sự khó khăn, thiếu thốn của một đất nước vừa mới giành độc lập, cuối năm 1946, lại thêm một phong trào sâu rộng nữa của quần chúng ủng hộ các chiến sỹ được dấy lên thông qua cuộc vận động “Mùa đông binh sỹ”. Chiều ngày 17/11/1946 tại Nhà hát lớn Thành phố Hà Nội, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam đã tổ chức buổi lễ xung  phong “Mùa đông binh sỹ” với sự có mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên của Chính phủ. Tại buổi lễ, Bác Hồ kính yêu đã cởi chiếc áo rét của Người đang mặc để tặng binh sỹ. Noi gương Người, đồng bào khắp nới đã xung phong ủng hộ hàng vạn quần áo, giày mũ cho các chiến sỹ.
          Từ ngày 19/12/1946 khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, số binh sỹ bị thương và hy sinh trong chiến đấu ngày càng tăng lên. Vấn đề thương binh, liệt sỹ trở thành vấn đề lớn và hết sức quan trọng. Ngày 16/2/1947 chính phủ ban hành chế độ “hưu bổng thương tật”và “tiền tuất cho thương binh liệt sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà nước ta thể hiện sự quan tâm, ưu ái đối với các chiến sỹ bị thương và gia đình liệt sỹ.
          Tháng 6 năm 1947 tại xã Phú Minh – huyện Đại Từ (Thái Nguyên), một Hội nghị quan trọng của các cơ quan Chính phủ và các Hội, đoàn thể chính trị ở Trung ương quyết định chọn ngày 27/7/1947 là ngày Thương binh toàn quốc và chiều ngày 27/7/1947 tại xã Hùng Sơn của huyện Đại Từ, đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn. Đại biểu Ban tổ chức ngày Thương binh toàn quốc trịnh trọng đọc bức thư của Hồ chủ tịch gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức ngày Thương binh toàn quốc. Từ đó hàng năm, cứ vào dịp 27/7 nhân dân cả nước lại sôi nổi tổ chức các hoạt động quyên góp giúp đỡ chăm sóc các thương binh và gia đình liệt sỹ. Ngày 27/7 hàng năm đã trở thành một ngày rất thiêng liêng, phản ánh ý chí quyết giành độc lập tự do và sự tôn trọng quý mến của nhân dân cả nước đối với những người đã vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân mà hy sinh xương máu, tính mạng.
          Từ năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi tên ngày thương binh toàn quốc thành “ngày Thương binh – Liệt sỹ” để thể hiện đầy đủ hơn tình cảm , sự quan tâm, ghi nhận và lòng biết ơn sâu sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trước những hy sinh, đóng góp to lớn của các anh hùng liệt sỹ, các thương binh, bệnh binh, các gia đình chính sách có công với cách mạng vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc và vì hạnh phúc của nhân dân.
          Hàng năm, cứ đến 27/7 nhân dân trong cả nước lại sôi nổi tổ chức kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ và coi đó là sự kiện quan trọng có ý nghĩa chính trị rất sâu sắc. Cứ mỗi năm trôi qua, công tác thương binh liệt sĩ lại có bước phát triển mới, tạo điều kiện giải quyết tốt hơn, chu đáo hơn và đạt kết quả cao hơn trong chính sách chế độ cũng như trong cuộc vận động toàn dân chăm sóc thương binh và gia đình liệt sỹ.
          Ý nghĩa chính trị sâu rộng của việc làm tốt công tác thương binh liệt sĩ và chăm sóc người có công với cách mạng cũng như việc tổ chức kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ được thể hiện:
          Thứ nhất:  Nó phản ánh sự đánh giá, ghi nhận của Đảng, Nhà nước và  của toàn xã hội đối với những hy sinh xương máu, những đóng góp lớn lao của các thương binh, liệt sỹ và gia đình họ đối với Tổ quốc, với nhân dân. Thông qua sự quan tâm chăm sóc, đùm bọc, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và nhân dân, người thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sỹ, gia đình thương binh càng thêm  trân trọng, tự hào với những gì mình đã đóng góp cho tổ quốc, cho nhân dân. Làm cho bản thân và gìa đình họ tăng thêm ý chí, nghị lực để phấn đấu vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc sống và tiếp tục đóng góp, cống hiến tài năng và công sức cho công cuộc bảo vệ, dựng xây nước nhà. Hoạt động kỷ niệm này sẽ góp phần cổ vũ các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là lớp trẻ hăng say cống hiến, hun đúc thêm ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do, ý chí tự cường dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, yêu CNXH, tinh thần cách mạng tiến công, tình yêu mãnh liệt đối với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, động viên gia đình Thương binh liệt sĩ tiếp tục phát huy truyền thống, nêu gương sáng trong học tập, lao động sản xuất và đời sống hàng ngày.
          Thứ hai : Đây cùng là dịp nhằm giáo dục cho mọi người dân ý thức trách nhiệm, lòng biết ơn đối với các anh hùng liệt sỹ, các thương binh, bệnh binh và các gia đình thương binh liệt sỹ về những đóng góp, hy sinh xương máu của họ vì sự tồn vong của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Giáo dục cho mỗi người dân, đặc biệt là lớp trẻ, những tấm gương sẵn sàng chiến đấu xả thân vì dân, vì nước, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống hào hùng của cha anh, phát huy truyền thống “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc tích cực tham gia có hiệu quả vào công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng, góp phần làm cho công tác phát triển thành phong trào sâu rộng trong toàn xã hội. Trong thư Bác viết gửi đồng bào tháng 7/1952, Hồ chủ tịch nhắc nhở “về phần đồng bào nên coi đó là nghĩa vụ của nhân dân đối với chiến sỹ thương binh, bị bệnh, không nên coi đó là việc làm phúc”. Theo Bác, chỉ có trên cơ sở đó mới thúc đẩy phong trào chăm sóc TB, gia đình LS và các đối tượng có công với cách mạng phát triển mạnh mẽ, đạt được kết quả thiết thực, làm cho công tác Thương binh liệt sĩ và chăm sóc người có công với cách mạng ngày càng mang tính xã hội hóa cao với tinh thần Nhà nước, nhân dân và đối tượng chính sách cùng lo”. Chỉ có như vậy thì hiệu quả mới cao và các đối tượng chính sách mới ổn định và nâng cao được đời sống, góp phần vào sự ổn định chính trị xã hội và thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
          Thứ ba: Đây cũng là dịp giúp cho mọi người dân thấy được sự quan tâm của Đảng, Bác Hồ và Nhà nước ta đối với công tác thương binh liệt sỹ và chăm sóc người có công với cách mạng, hiểu rõ hơn các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề này để cùng nhau tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện của các cấp, các ngành và góp phần hoàn thiện, bổ sung chính sách cho hợp lý và hiệu quả hơn, thiết thực hơn.
          Thứ tư : Đây cũng là dịp để tổng kết, rút kinh nghiệm công tác tổ chức cũng như hiệu quả các phong trào đền ơn đáp nghĩa trong nhân dân, việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp. Từ đó kịp thời phổ biến kinh nghiệm, biểu dương những tập thể, cá nhân có nhiều công lao đóng góp xây dựng phong trào, chăm sóc đối tượng chính sách, những tấm gương thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng khắc phục khó khăn, bênh tật để vươn lên trong học tập, công tác và đời sống hàng ngày, khơi dậy và phát huy những tiềm năng to lớn trong nhân dân đối với công tác này, khai thác thêm các khả năng trong và ngoài nước nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện tốt hơn cho việc chăm lo thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng.
          Thứ năm : Làm tốt công tác thương binh liệt sĩ và chính sách đối với người có công với cách mạng còn thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, làm tăng thêm tiềm lực của cách mạng, tăng thêm sự gắn bó máu thị của nhân dân đối với Đảng, với chế độ, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần ổn định chính trị xã hội và giữ vững định hướng XHCN, chống lại một cách có hiệu quả và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “DBHB” – BLLĐ của các lực lượng thù địch hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bôi nhọ quá khứ hào hùng của dân tộc ta, gây chia rẽ trong nhân dân, làm mất niềm tin của nhân dân vào năng lực lãnh đạo của Đảng, vào chế độ và thành công của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
          Năm 2017 kỷ niệm 70 năm ngày thương binh liệt sĩ, đây còn là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta một lần nữa ghi nhớ những đóng góp và công lao to lớn của những người con ưu tú của dân tộc đã vì dân, vì nước mà không tiếc máu xương. Đây cũng là dịp để thể hiện tấm lòng nhân hậu, thủy chung “Đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”- một truyền thống quý báu của dân tộc được hình thành và phát triển qua bao đời nay. Đây không chỉ là nghĩa vụ mà còn là trách nhiệm, là vinh dự của mỗi người dân Việt Nam, những người đã và đang được thừa hưởng cuộc sống yên bình, ấm no, tự do, hạnh phúc, mà để có được điều này trải qua bao thế hệ cả dân tộc Việt Nam đã phải gồng mình trong công cuộc đấu tranh giải phóng, dựng nước và giữ nước. Trong cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại ấy theo tiếng gọi của Tổ quốc và sự thôi thúc con tim, có biết bao người con ưu tú đã xung phong ra nơi chiến trường khói lửa rồi mãi mãi không trở về nữa trong sự mỏi mòn ngóng trông của người thân, gia đình; lại có biết bao người con khác ngày trở về của họ đã không có được sự bình yên trọn vẹn khi họ mãi mãi mang trong mình những thương tích, những mất mát và nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần trong suốt quãng đời còn lại; cùng với đó là biết bao gia đình vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, vì sự tồn vong của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân mà đã chấp nhận hy sinh, hiến dâng cả những gì cao quý nhất, thiêng liêng nhất thuộc về mình: Đó là sức khỏe, là trí tuệ, là mồ hôi xương máu và tính mạng của chính bản thân và người thân họ. Chính những hy sinh và đóng góp to lớn của các anh hùng liệt sỹ, các thương binh, bệnh binh và các gia đình có công với cách mạng đã góp phần quan trọng tạc vào lịch sử dân tộc một dáng đứng hiên ngang, bất diệt mà các thế hệ hôm nay và mãi mãi về sau sẽ luôn trân trọng, ghi nhớ, ra sức phát huy và phát triển lên những tầm cao mới – dáng đứng Việt Nam.

Tổ chức kỷ niệm ngày TB-LS (27/7) còn là thời cơ lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thêm một bước mang thật nhiều ý nghĩa về công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng. Khai mạc Đại hội XII Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu: Đại hội chúng ta tưởng nhớ, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc các thế hệ cách mạng tiền bối, các anh hùng liệt sĩ, đồng bào, đồng chí đã cống hiến, lao động, chiến đấu ngoan cường và hy sinh anh dũng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một trong 12 nhiệm vụ tổng quát, Đại hội XII đề ra là: Quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập; xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh, an toàn.

Ngày Thương binh liệt sĩ có ý nghĩa thiêng liêng của dân tộc Việt Nam

Hàng năm, ngày thương binh, liệt sĩ 27/7 đã trở thành một ngày toàn dân tưởng nhớ, tri ân những người có công với nước.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Khi chính quyền cách mạng đang còn non trẻ thì thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập tự do, quân và dân ta ở những nơi thực dân Pháp gây hấn đã chiến đấu anh dũng. Bằng lòng tiếc thương vô hạn ấy, người sống tự nói với lòng mình rằng: “Hãy sống sao cho xứng với người đã khuất”. Và rồi đã như thành truyền thống, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã dành tình thương yêu của mình chăm sóc các gia đình liệt sĩ, anh chị em thương binh, bệnh binh một cách tận tình chu đáo.
Ngày 28/5/1946, Hội “Giúp binh sĩ bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát thành phố Hà Nội và Bác Hồ đã tới dự. Chiều ngày 11/7/1946, tại Nhà hát này đã có một buổi quyên góp quần áo, giầy mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “mùa đông chiến sĩ”. Tại đây, Bác Hồ đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng binh sĩ.  Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan ra nhiều vùng, số người bị thương, bị hy sinh tăng lên. Đời sống của chiến sĩ gặp nhiều khó khăn thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho các gia đình chính sách trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến. Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Tổng Hội Phụ nữ cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ - Thái Nguyên.  Nội dung cuộc họp là thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn ngày kỷ niệm Thương binh Liệt sĩ và bảo vệ công tác thương binh liệt sĩ. Sau khi xem xét, Hội nghị đã nhất trí lấy ngày 27/7/1947 làm ngày Thương binh toàn quốc, là dịp để đồng bào “tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh”.
Trong thư gửi Ban thường trực của Ban tổ chức ngày Thương binh toàn quốc (ngày 27/7/1947), Bác Hồ viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ, của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập, ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh”.
Cảm động biết bao khi một vị Chủ tịch nước, hàng năm cứ đến Ngày Thương binh liệt sĩ lại gửi thư cùng một tháng lương của mình, kèm đó, khi thì một bữa ăn, khi thì một món quà (do đồng bào gửi biếu) để tặng anh em thương binh. Với quan điểm khoa học và đầy tinh thần lạc quan “tàn nhưng không phế”, Bác khuyên anh em thương binh khi đã khôi phục sức khoẻ phải hăng hái tham gia công tác sản xuất để trở nên người công dân kiểu mẫu. Bác chúc các gia đình liệt sĩ trở thành những “gia đình cách mạng gương mẫu”.
Đã 64 năm trôi qua kể từ Ngày Thương binh liệt sĩ đầu tiên ấy. Mỗi năm, cứ đến ngày 27/7, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta lại nhớ đến Bác và thêm tự hào về bước phát triển của công tác thương binh, liệt sĩ theo tư tưởng và sự chỉ đạo của Người.
Hàng năm, ngày thương binh, liệt sĩ 27/7 đã trở thành một ngày toàn dân tưởng nhớ, tri ân những người có công với nước. Đảng và Nhà nước ta có nhiều chính sách ưu đãi về cả vật chất lẫn tinh thần đối với người có công cũng như gia đình và con em của họ. Nhưng tưởng nhớ, tri ân với người có công với nước không chỉ một ngày, một đợt, một lễ kỷ niệm mà cần hơn là những việc làm thiết thực, thường xuyên để giúp gia đình con em những người đã hi sinh, mang thương tật vơi bớt khó khăn trong cuộc sống.

Phát huy truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam

Việt nam là một dân tộc có truyền thống yêu nước nồng nàn, buất khuyất, đã có biết bao người con của dân tộc Việt Nam không quên than mình chiến đấu anh dũng, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, đem lại cuộc sống hòa bình cho nhân dân để chúng ta có được như ngày nay, đây là những công lao vô cùng to lớn không có gì sánh được. Kỷ niệm 70 năm ngày thương binh liệt sỹ ngày 27/7/2017 là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta có dịp nhìn lại, ôn lại những việc làm, những công lao đóng góp vô cùng to lớn của các anh hùng, liệt sỹ, thương binh, bệnh binh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cách đây 70 năm, ngày 27-7-1947 được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm Ngày Thương binh toàn quốc “sau đó được đổi là Ngày thương binh, liệt sĩ”. Ngày này đã đi vào lịch sử đất nước như một dấu ấn thúc giục, nhắc nhở toàn Ðảng, toàn dân ta phát huy hơn nữa truyền thống "uống nước nhớ nguồn", một đạo lý nhân văn cao đẹp của dân tộc ta với hàng nghìn năm lịch sử hào hùng. Vào ngày này, toàn Ðảng, toàn dân ta có dịp nhìn lại những việc đã làm để đền ơn đáp nghĩa thương binh, liệt sĩ và củng cố quyết tâm làm tốt công tác này hơn nữa đối với người có công với cách mạng. Nhìn lại tiến trình lịch sử, trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta luôn phải gồng mình chống lại ngoại xâm và thiên tai khắc nghiệt, lập nên bao chiến công hiển hách, những trang sử vẻ vang của dân tộc. Ði liền với những vinh quang đó phải kể đến những tổn hại hết sức to lớn về người và của. Chính đặc điểm lịch sử đó đã tạo nên một truyền thống tốt đẹp và quý báu của dân tộc ta, đó là đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây" mà mỗi chúng ta cần phải ghi và phát huy. Thực tiễn ở các miền quê, ở mỗi địa phương của nước ta cho thấy rằng từ nhiều đời nay luôn có tập tục lập miếu thờ, đền thờ những người có công dựng nước và giữ nước như: anh hùng có công đánh giặc giữ nước, ông tổ làng nghề, người phá hoang lập làng, lập ấp... Có thể nói, truyền thống quý giá này được nâng lên một chất mới khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập (tháng 8-1945), một chế độ xã hội tốt đẹp nhất trong lịch sử nước nhà, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và  Bác Hồ vĩ đại. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập chưa được bao lâu thì kháng chiến bùng nổ, chúng ta phải tiếp tục chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và giặc ngoại xâm, trong hoàn cảnh vừa chiến đấu, vừa xây dựng đất nước, một hoàn cảnh hết sức khó khăn về nhiều mặt. Tuy nhiên, Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm giải quyết tốt chính sách thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, nên đã tạo sức mạnh to lớn góp phần đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược, mặc dù chúng mạnh hơn ta gấp nhiều lần.
     Thực tiễn cho thấy, khi cả nước thống nhất đi lên xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới; công tác đền ơn đáp nghĩa của Ðảng và Nhà nước ta có những bước phát triển mới cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Ðảng và Chính phủ đã có nhiều chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác thương binh, liệt sĩ. Ðặc biệt, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về người có công với cách mạng và Pháp lệnh quy định về Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, với nội dung cơ bản là xã hội hóa công tác đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và những người có công với nước, làm sao cho các gia đình thuộc diện chính sách này ở các địa phương có mức sống ngang bằng hay khá hơn mức sống trung bình ở địa phương cư trú. Theo đó, là ở mỗi địa phương, các cấp ủy, chính quyền và nhân dân phải có trách nhiệm giúp đỡ, hỗ trợ các gia đình trong diện chính sách phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, làm cho họ có cuộc sống ngày càng khấm khá hơn. Đây chính là những mốc son, dấu ấn, đánh dấu tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc, trách nhiệm lớn lao và quyết tâm  hành động rất lớn của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta trong việc đền đáp công ơn to lớn đối với những người đã vì đất nước, vì Tổ quốc, vì nhân dân sẵn sang xả thân quên mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Thực tiễn qua hơn 30 năm đổi mới của đất nước với nhiều thắng lợi về mọi mặt, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, công tác đền ơn đáp nghĩa đã giành được nhiều thắng lợi to lớn được nhân dân đánh giá cao. Tính đến nay, cả nước có hơn 50 vạn thân nhân liệt sĩ, gần 60 vạn thương binh, bệnh binh,  hơn 43 nghìn Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (còn sống là 7.120 người), hơn 13 nghìn người có công với nước. Hằng năm, Ðảng, Nhà nước cùng toàn dân đã chi một số tiền rất lớn vào công tác đền ơn đáp nghĩa, nhằm giúp đỡ các gia đình thuộc diện chính sách vượt qua khó khăn, đặc biệt là làm sao động viên họ phát huy ý chí tự lực, tự cường để vươn lên và làm gương giúp đỡ người khác cùng phát triển. Do đó, đời sống của các đối tượng gia đình chính sách được cải thiện rõ rệt, là phong trào này đã ăn sâu bám rễ và ngày càng phát triển trong xã hội ta, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi; từ đồng bào người Kinh đến đồng bào các dân tộc thiểu số cũng như đồng bào có đạo trong cả nước. Nhiều tổ chức, cá nhân, tập thể, địa phương đã thực hiện rất tốt công tác này và trở thành điển hình xuất sắc để chúng ta học tập, noi theo. Các địa phương như Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh hay các ngành như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... là những nơi có phong trào đền ơn đáp nghĩa tổ chức thực hiện rất tốt và đạt hiệu quả rất cao. Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", cả nước đã chăm sóc tốt các gia đình thương binh, liệt sĩ, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cũng như những người có công với nước, làm dịu bớt nỗi đau mất mát của họ sau những năm chiến tranh khốc liệt. Cả nước đã quy tập, sửa sang, nâng cấp 3.000 nghĩa trang liệt sĩ và hàng vạn công trình ghi công khác; xây hơn 300.000 nhà tình nghĩa; lập quỹ đền ơn đáp nghĩa đạt 200 tỷ đồng; tặng hơn 60.000 sổ tiết kiệm, hàng vạn vườn cây, ao cá, giếng nước nghĩa tình giúp các gia đình chính sách; đào tạo và hỗ trợ việc làm cho hàng nghìn con em gia đình chính sách...Mỗi địa phương, mỗi ngành, mỗi tập thể, cá nhân đã phát huy mọi điều kiện, khả năng của mình để làm nhiều việc tốt đền ơn đáp nghĩa. Ðây là những việc làm mang đậm chất nhân văn mà chúng ta rất trân trọng và tiếp tục phát huy. Cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã chú ý rất nhiều đến chính sách xã hội để làm sao cho tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, xã hội; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với cải thiện đời sống của đại đa số nhân dân lao động cũng như kết hợp với xóa đói, giảm nghèo. Chúng ta đã cố gắng làm được nhiều việc để đền đáp công ơn thương binh, liệt sĩ, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, người có công với nước. Nhưng cũng thấy rằng, chúng ta phải cố gắng nhiều hơn nữa trong công tác này nhằm thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với những người đã hy sinh, cống hiến cho đất nước để có được cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay. Ðó là trách nhiệm xã hội của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta trước lịch sử dân tộc, đất nước. Trong thời gian tới, chúng ta càng đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, càng đi sâu vào hội nhập kinh tế quốc tế thì việc bảo toàn, phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc càng là vấn đề cấp thiết, trong đó có đạo lý truyền thống "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây". Ðây còn là việc làm tốt nhất nhằm giáo dục toàn Ðảng, toàn dân, nhất là thế hệ trẻ, gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Có thể nói, xã hội càng hiện đại, kinh tế - xã hội càng phát triển thì yêu cầu về phát triển văn hóa, văn minh tinh thần càng cấp bách hơn bao giờ hết. Ðiều này nhắc  nhở chúng ta phải có trách nhiệm rất lớn lao trong công tác đền ơn đáp nghĩa nói riêng, trong việc gìn giữ, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp văn hóa dân tộc đây chí là trách nhiệm của mỗi công dân Việt Nam. Ðể làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa trong thời gian tới, một số yêu cầu có tính quyết định mà toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân cần phải tập trung thực hiện tốt đó là:
     Một là, nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Ðảng trong công tác thương binh, liệt sĩ cũng như việc ban hành chính sách, chế độ đối với cá nhân, thân nhân và gia đình thuộc diện chính sách xã hội nói chung. Ðiều quan trọng nhất là, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bô, đảng viên phải hăng hái, gương mẫu đi đầu trong thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa để quần chúng lấy đó làm gương noi theo và học tập.
     Hai là, củng cố, phát huy hơn nữa vai trò quản lý nhà nước trong công tác đền ơn đáp nghĩa, trong đó chú ý nâng cao hiệu quả quản lý của các bộ, ngành liên quan, như Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ, các cơ quan, đoàn thể tổ chức chính trị xã hội...
     Ba là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính làm tốt việc giải quyết các công việc tồn đọng trong chiến tranh. Làm sao cho các gia đình chính sách được hưởng đầy đủ quyền lợi chế độ chính sách đãi ngộ của Ðảng, Nhà nước, không bỏ sót trường hợp nào. Qua đó cũng không thể để xảy ra sai phạm hay nảy sinh tiêu cực trong lĩnh vực này, lợi dụng để trục lợi cá nhân.
     Bốn là, phát huy hơn nữa cơ chế Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trong những năm qua, vai trò làm chủ của nhân dân rõ ràng là có hiệu quả to lớn, nhất là thông qua các hoạt động sôi nổi có hiệu quả của các  tổ chức chính trị xã hội tiêu biểu là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Tấm lòng của mỗi cá nhân, tập thể, các nhà hảo tâm, thậm chí của cả các cháu thanh, thiếu niên đã được huy động rất tốt vào công tác đền ơn đáp  nghĩa; thật sự đã trở thành lực lượng không thể thiếu trong công tác này.
     Năm là, cần có cơ chế chính sách phát huy hơn nữa vai trò to lớn của đông đảo quần chúng trong công tác này thông qua các phong trào thi đua yêu nước động viên khen thưởng công minh. Cần phát huy nhân rộng các điển hình tiên tiến sao cho sâu hơn, rộng hơn, kịp thời hơn và hiệu quả hơn đối với công tác đền ơn đáp nghĩa.

     Sáu là, các phương tiện thông tin đại chúng cần làm tốt công tác   tuyên truyền, giáo dục, vận động các tổ chức, cá nhân tích cực tham gia   vào việc làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sự quản lý của Nhà nước, các phương tiện thông tin đại chúng cần phát huy thành tích đã đạt được làm tốt hơn nữa việc tuyên truyền đường lối chính sách của Ðảng, luật pháp của Nhà nước, đồng thời vận động nhân dân thi đua làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và đền ơn đáp nghĩa      đối với các gia đình chính sách. Chúng ta tin rằng với bản lĩnh và truyền thống của mình, các phương tiện thông tin đại chúng sẽ làm tốt hơn rất nhiều công tác này trong thời gian tới./.

Khởi tố vụ án ở Đồng Tâm là đúng pháp luật Việt Nam

Ngày 13/6/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự liên quan đến việc bắt giữ 38 người thi hành công vụ tại thôn Hoành (xã Đồng Tâm, Mỹ Đức) để điều tra về 2 tội danh: bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo điều 123 Bộ Luật hình sự và hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo điều 143 Bộ Luật hình sự. Đây là việc làm theo đúng trình tự quy định của pháp luật.
Thứ nhất, theo quy định, khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng mở đầu các hoạt động điều tra. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hình thức văn bản tố tụng, nhằm để xác định sự việc xảy ra trong thực tế có hay không có dấu hiệu của tội phạm để từ đó ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Việc khởi tố vụ án không đồng nghĩa với việc sẽ khởi tố bị can. Cơ quan điều tra chỉ khởi tố bị can khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp sau khi đã khởi tố vụ án nhưng cơ quan điều tra lại chưa xác định được ai đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc xác định được nhưng không biết người đó đang ở đâu mà thời hạn điều tra đã hết thì cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra cho đến khi xác định được. Nếu đã xác định được người thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan điều tra phục hồi điều tra, khởi tố bị can nhưng với điều kiện là thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi phạm tội vẫn còn. Ngoài ra nếu đã khởi tố vụ án nhưng trong quá trình điều tra xác định không có sự việc phạm tội hay hành vi của người bị điều tra không cấu thành tội phạm, cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra. Và theo đúng trình tự đó, việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội ra quyết định khởi tố vụ án hình sự liên quan đến việc bắt giữ 38 người thi hành công vụ tại thôn Hoành (xã Đồng Tâm, Mỹ Đức) để điều tra là đúng trình tự quy định của pháp luật.
Thứ hai, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định rất rõ về quyền tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú. Theo Điều 123, Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009: “Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Do đó, mọi hành vi xâm hại tới quyền tự do thân thể của công dân đều là hành vi vi phạm pháp luật. Việc bắt, giữ hoặc giam người phải tuân thủ các quy định của pháp luật, chỉ có người phạm tội quả tang, người bị truy nã, người phải chấp hành án phạt tù mới bị bắt. Vì vậy, nếu người nào tự ý bắt, giam, giữ người trái pháp luật thì hành vi này là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú của công dân, do vậy sẽ bị xử lý hình sự về tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật quy định tại Điều 123, Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Đối với vụ việc ở Đồng Tâm, nếu thời gian tới, cơ quan điều tra khởi tố bị can thì những người vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3, Điều 123 Bộ luật hình sự nêu trên với hành vi “chống người thi hành công vụ”. Bên cạnh đó, Pháp luật Việt Nam quy định rất rõ về chế độ tài sản và các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trong đó có thể áp dụng chế tài hình sự. Theo đó, người nào cố ý làm hư hỏng hoặc hủy hoại tài sản của người khác trị giá từ 2 triệu đồng trở lên thì hành vi này là nguy hiểm cho xã hội và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 143, Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Vụ việc xảy ra ở Đồng Tâm vừa qua có dấu hiệu tội phạm về các tội: bắt giữ người trái pháp luật và hủy hoại tài sản. Vì vậy, việc cơ quan điều tra Công an Hà Nội khởi tố vụ án là có căn cứ và đúng pháp luật.
Như vậy, vấn đề khởi tố vụ án hay không phải dựa trên cơ sở pháp luật. Nếu có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì bất kể cơ quan, tổ chức nào đều phải bị khởi tố, không có trường hợp nào là đặc biệt và ngoại lệ. Ra quyết định khởi tố hình sự chỉ là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng để có thể tiến hành điều tra một vụ án mà các dấu hiệu phạm tội đã được ghi nhận. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân sẽ được xem xét sau, căn cứ vào kết quả điều tra. Pháp luật còn quy định tình tiết giảm nhẹ, miễn trừ hình sự và hành chính. Trên cơ sở đó căn cứ tính chất, mức độ hành vi vi phạm để quyết định xử hay không, miễn hay không, xử nặng hay nhẹ. Khởi tố cũng có thể miễn trách nhiệm hình sự, có thể miễn hình phạt, có thể xử nhưng cho hưởng án treo, hay xử phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ. Vì vậy, trách nhiệm của cơ quan thực thi pháp luật là phải khởi tố điều tra, làm rõ những vấn đề đó để đảm bảo sự công bằng và sự tôn nghiêm của pháp luật./.

Thứ Ba, 11 tháng 7, 2017

Ngày mùng 2 tháng 9

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã sang trang mới, bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Đó là thành quả cách mạng vĩ đại của tinh thần đoàn kết triệu người như một của dân tộc Việt Nam.
          Cứ mỗi lần nghe bản tuyên ngôn độc lập trong tôi lại trào dâng những xúc cảm kỳ lạ, niềm tin kiêu hãnh lòng tự hào dân tộc. Đã là người Việt Nam thì ngày 2/9 đều mang một ý nghĩa không thể nào quên. Chính ngày 2/9/1945 đã đi vào lịch sử là ngày độc lập dân tộc chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta, đồng thời mở ra kỉ nguyên mới, kỷ nguyên nhân dân ta làm chủ vận mệnh của mình để thực hiện độc lập tự do hạnh phúc. Tại quảng trường Ba Đình lịch sử trước hơn 50 vạn nhân dân chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố với nhân dân Việt Nam và thế giới rằng: nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời đồng thời là một nước độc lập, chủ quyền.
          Cách mạng tháng tám thành công, Trung Ương Đảng phái đồng chí Lê Đức Thọ lên chiến khu đón chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội và nghỉ tại thôn Phú Gia, xã Phú Thượng, Từ Liêm. Sau đó Người về ở nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội.
          Tại cuộc họp của chính phủ lâm thời, theo đề nghị của Người một chính phủ thống nhất toàn quốc thể hiện ở chính sách đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ được thành lập.
          Buổi trưa ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, trong cuộc mitting của trên 50 vạn nhân dân Hà Nội và vùng lân cận chào mừng chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố với nhân dân Việt Nam và thế giới rằng: nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra đời. Bản tuyên ngôn độc lập khẳng định:
          “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng. Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập! …. Nước Việt Nam có quyền đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
          Tuyên ngôn độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh viết là sự phát triển của bản yêu cầu mà Người gửi cho hội nghị hòa bình ở Vec-xây năm 1919, là sự phát triển của chương trình Việt Minh mà người soạn thảo năm 1941. Nó là kết tinh những quyền lợi cơ bản và những nguyện vọng tha thiết nhất của dân tộc Việt Nam và nói lên tâm hồn trong sáng, khí phách hào hùng của nhân dân ta.
          “Bản tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trên những hải đảo xa xôi, trên những máy chém, trên chiến trường. Bản tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu hy vọng gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam”.
          Với ý nghĩa trong đại của mình ngày mùng 2/9 đã được lấy làm ngày quốc khánh của Việt Nam là quốc lễ của đất nước cứ đến mỗi dịp này toàn thể dân tộc ta lại rộn ràng thi đua học tập chào mừng quốc khánh. Khắp mọi miền tổ của tổ quốc, từ thành thị đến nông thôn mọi người cùng nhau treo những lá cờ đỏ sao vàng để thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của mình. Một không khí thật rộn ràng như làm người ta sống lại nhưng giây phút hào hùng đó, giây phút tự do độc lập.
          Ngày quốc khánh nước ta không chỉ có những ý nghĩa lịch sử mà nó còn như gọi lại nhắc nhở thế hệ trẻ bây giờ khi sinh đã may mắn không phải chứng kiến cảnh đất nước chia cắt, súng đạn và chiến tranh. Cũng như tự hào về truyền thống tốt vẻ vang của cha ông ta chí kiên cường bất khuất đánh đuổi xâm lăng bảo vệ tổ quốc. Để đổi lại hòa bình như bây giờ cha ông ta đã phải đổ không biết bao nhiêu sương máu bao con người đã ngã xuống mà chưa kịp được hưởng lấy một ngày hòa bình. Thế hệ trẻ những con người sẽ viết tiếp nhưng trang lịch sử dân tộc cần phải nhận thức được ý nghĩa trọng đại của những ngày lịch sử này để có những cống hiến cho đất nước xứng đáng với những gì cha ông ta để lại.
          Ngày 2/9 đã trở thành một ngày trọng đại của cả nước ngày mà tất cả nhân dân không chỉ trong nước mà tất cả đồng bào Việt Kiều đều cùng nhau hướng về tổ quốc. Dường như vào ngày này tình yêu quê hương đất nước trong lòng người dân lại trỗi dậy mạnh mẽ. Mọi người cùng nhau nói chuyện kể cho nhau nghe nhưng giây phút hào hùng của dân tôc,cùng nhau nghe lai bản Tuyên Ngôn Độc Lập mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc trước hàng vạn người dân Viêt Nam. Dù đã trải qua thời gian nhưng mỗi dịp này ai cũng có những cảm xúc riêng của mình nhưng trong tất cả người dân Việt Nam đều là một tình yêu đất nước lòng tự hào dân tộc.
Ngày 2/9/1945 trở thành mốc son trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nhà nước công – nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đây, một kỷ nguyên mới đã mở ra cho dân tộc Việt Nam. Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Tổ quốc Việt Nam đã độc lập, tự do. Khát vọng hòa bình và tinh thần bất diệt của Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 mãi mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của mỗi con người Việt Nam và đây là nguồn động viên lớn để khơi dậy lòng nhiệt huyết của thế hệ hôm nay quyết giữ vững nền độc lập tự do./.

Phát huy truyền thống, sức mạnh cộng đồng trong "đền ơn đáp nghĩa”

Cách đây 70 năm, thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc” đã họp và nhất trí chọn ngày 27-7-1947 làm “Ngày thương binh toàn quốc”.
          70 năm qua, Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27-7) trở thành ngày truyền thống thực hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc, với nhiều hoạt động thiết thực, giàu tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, thể hiện lòng kính trọng, biết ơn sâu sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với những người đã cống hiến, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống bình yên của nhân dân.  
          Trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm, chăm lo đối với thương binh, liệt sĩ, người có công. Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng luôn có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách an sinh xã hội. Thực hiện tốt công tác chăm sóc người có công, người tham gia kháng chiến và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” được xác định là nhiệm vụ chính trị của các cấp, các ngành, các địa phương và cả hệ thống chính trị, góp phần quan trọng giáo dục lòng yêu nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
          Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Nhà nước, của các cấp chính quyền, ban, ngành, đoàn thể và toàn xã hội... công tác chăm sóc thương binh, liệt sĩ và người có công với nước, hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” đã đạt được nhiều thành quả to lớn. Bằng nhiều chủ trương, biện pháp cụ thể, với nhiều cách làm sáng tạo, đời sống của thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công, gia đình chính sách… ngày càng được cải thiện, từng bước được nâng cao. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ đã phát triển thành 5 chương trình lớn, có sức lan tỏa sâu rộng, đạt hiệu quả thiết thực.
          Tuy nhiên, công tác thương binh, liệt sĩ, thực hiện chính sách đối với người có công và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” những năm qua vẫn còn những hạn chế, như: Việc tuyên truyền phổ biến chế độ, chính sách chưa thực sự sâu rộng, kịp thời; một số nội dung nghiên cứu, tham mưu đề xuất chưa bảo đảm tiến độ; trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chính quyền các cấp có mặt còn hạn chế; nguyên tắc, thủ tục giải quyết chế độ, chính sách một số nơi thiếu công khai, dân chủ; một số chế độ trợ cấp ưu đãi còn thấp; phong trào xã hội hóa chưa đáp ứng được nhu cầu của người có công với cách mạng và công tác “đền ơn đáp nghĩa”.
          Thực tế trên càng đặt ra yêu cầu, trách nhiệm cao hơn đối với các cấp, các ngành và toàn xã hội trong việc chăm lo, hỗ trợ, giúp đỡ thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng trong những năm tới, như Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội, kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống trung bình trở lên…”.
          Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên, thời gian tới, các cấp, các ngành, các địa phương cần thực hiện tốt hơn một số nội dung, công tác trọng tâm. Trước hết, phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc, qua đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong triển khai thực hiện chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng và đẩy mạnh phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách ưu đãi người có công theo hướng bảo đảm ngày càng tốt hơn, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Cấp ủy, chính quyền các cấp thường xuyên quan tâm chăm lo công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đầy đủ, chu đáo các chính sách ưu đãi, không để xảy ra sai sót, tiêu cực...
          Để chăm lo tốt hơn người có công và gia đình chính sách, yêu cầu hết sức quan trọng là cùng với vai trò chủ đạo của Nhà nước, cần xã hội hóa sâu rộng các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, huy động mọi nguồn lực xã hội, tiềm năng to lớn của cộng đồng, góp phần thực hiện tốt lời căn dặn của Bác Hồ: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải yêu thương và giúp đỡ họ”.
          Phong trào “đền ơn đáp nghĩa” trong giai đoạn mới cần được đẩy mạnh thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp mới, phong phú, hiệu quả; cần xác định đây là việc làm thường xuyên, liên tục, gắn với trách nhiệm và kết quả cụ thể; tránh tình trạng chạy theo thành tích, hoặc mang tính “thời vụ”...
          Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, với bản chất, truyền thống tốt đẹp, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, gương mẫu đi đầu cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng; coi đó là tình cảm, trách nhiệm và nhiệm vụ chính trị hết sức quan trọng. Phong trào “đền ơn đáp nghĩa” trong toàn quân những năm qua luôn gắn với thực hiện chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, phát huy phẩm chất, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao sức mạnh tổng hợp, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

          Thiết thực kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27-7-1947/ 27-7-2017), thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trên cơ sở xã hội hóa sâu rộng, động viên mọi nguồn lực… nhất định chúng ta sẽ thực hiện tốt hơn nữa công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo tốt hơn người có công với cách mạng, thiết thực củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.    

Mãi tưởng nhớ, tri ân các anh

Những năm qua, Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp Nhân dân, của các thế hệ đối với liệt sỹ, gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh và người có công với cách mạng. Sự cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của Nhân dân là vô giá, không chỉ cho ngày hôm qua, hôm nay mà cho muôn đời con, cháu mai sau. Để Nhân dân ta bày tỏ sự biết ơn đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng Đảng và nhà nước ta đã lấy ngày 27/7 hàng năm là ngày "Thương binh liệt sĩ".
Trải qua gần một thế kỷ, với các tên gọi “Ngày Thương binh toàn quốc”, “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” và được tổ chức trong những hoàn cảnh khác nhau (chiến tranh, hòa bình ở nửa đất nước, đất nước thống nhất, cả nước tiến hành công cuộc đổi mới), nhưng đúng như mục tiêu đề ra ban đầu, mỗi năm đến “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” ngày 27 tháng 7, trên đất nước ta lại dấy lên nhiều việc làm thiết thực, đầy tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình người có công với cách mạng, thể hiện truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đối với những người đã vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì tự do và cuộc sống yên bình của Nhân dân mà hy sinh, cống hiến.
Năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi "Ngày Thương binh toàn quốc" thành "Ngày Thương binh - Liệt sĩ" để thể hiện đầy đủ tình cảm, đạo lý, nghĩa vụ, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước ta và các thế hệ người Việt Nam đối với những người đã cống hiến, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của Nhân dân.
Ngày Thương binh - Liệt sĩ đã đi vào lịch sử đất nước ta là ngày lễ lớn, hội tụ đầy đủ ý nghĩa chính trị, đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn đáp nghĩa" của dân tộc ta, Nhân dân ta. Tổ chức các hoạt động kỷ niệm là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục ghi nhận, tôn vinh các liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng.
70 năm qua, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội trên toàn quốc đã phát động sâu rộng trong Nhân dân thực hiện tốt việc “Đền ơn đáp nghĩa” chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, điển hình như các phong trào: Xây dựng nhà tình nghĩa, cho các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, sửa chữa và làm mới tặng cho các đối tượng gia đình chính sách thương bệnh binh; tặng hàng trăm sổ tiết kiệm; thường xuyên tổ chức thăm hỏi tăng quà cho thân nhân người thương bệnh binh; ngoài ra còn tổ chức thăm và tặng quà của Chủ tịch nước cho một số gia đình chính sách nhân dịp tết Nguyên đán hàng năm; nhận phụng dưỡng hàng nghìn Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cha mẹ liệt sĩ già yếu neo đơn; đỡ đầu con liệt sĩ; thực hiện tốt các chính sách xã hội ưu tiên đối với con liệt sĩ, thương bệnh binh… Đây là những việc làm có ý nghĩa thiết thực, nhằm động viên, khích lệ kịp thời các đối tượng chính sách, tạo điều kiện để họ tiếp tục cống hiến sức lực của mình cho xã hội như lời Bác Hồ đã từng dạy “Thương binh tàn nhưng không phế”.
Thiết thực kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2017), Đảng bộ, chính quyền các cấp với sự chung tay, góp sức của các ngành, các đoàn thể xã hội và toàn thể Nhân dân tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi với người có công, tăng cường các hoạt động chăm sóc người và gia đình có công với cách mạng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với thương binh, liệt sĩ, người có công và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”. Giải quyết chính sách ưu đãi đối với người và gia đình có công với cách mạng; đẩy nhanh tiến độ rà soát, xét duyệt chế độ cho người hoạt động kháng chiến, người hưởng chính sách và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học theo quy định của Nhà nước. Làm tốt công tác quản lý, chăm sóc các công trình ghi tên liệt sĩ; phát động mạnh mẽ các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” như: phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, giúp đỡ thân nhân liệt sĩ khó khăn, tổ chức phát động Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”; duy trì phong trào xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công…

Kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 – 7/7/2017) là dịp để cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân cả nước luôn dành những tình cảm thiêng liêng nhất để tưởng nhớ, biết ơn những thương binh, liệt sĩ đã hy sinh xương máu của mình vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, để cho mỗi chúng ta có được cuộc sống thanh bình và hạnh phúc ngày hôm nay.

Ngày 27 tháng 7 - Ngày toàn dân tưởng nhớ, tri ân những người có công với nước

Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Khi chính quyền cách mạng đang còn non trẻ thì thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập tự do, quân và dân ta ở những nơi thực dân Pháp gây hấn đã chiến đấu anh dũng. Bằng lòng tiếc thương vô hạn ấy, người sống tự nói với lòng mình rằng: “Hãy sống sao cho xứng với người đã khuất”. Và rồi đã như thành truyền thống, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã dành tình thương yêu của mình chăm sóc các gia đình liệt sĩ, anh chị em thương binh, bệnh binh một cách tận tình chu đáo.
          Ngày 28/5/1946, Hội “Giúp binh sĩ bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát thành phố Hà Nội và Bác Hồ đã tới dự. Chiều ngày 11/7/1946, tại Nhà hát này đã có một buổi quyên góp quần áo, giầy mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “mùa đông chiến sĩ”. Tại đây, Bác Hồ đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng binh sĩ.  Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan ra nhiều vùng, số người bị thương, bị hy sinh tăng lên. Đời sống của chiến sĩ gặp nhiều khó khăn thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho các gia đình chính sách trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến. Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Tổng Hội Phụ nữ cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ - Thái Nguyên.  Nội dung cuộc họp là thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn ngày kỷ niệm Thương binh Liệt sĩ và bảo vệ công tác thương binh liệt sĩ. Sau khi xem xét, Hội nghị đã nhất trí lấy ngày 27/7/1947 làm ngày Thương binh toàn quốc, là dịp để đồng bào “tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh”.
          Trong thư gửi Ban thường trực của Ban tổ chức ngày Thương binh toàn quốc (ngày 27/7/1947), Bác Hồ viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ, của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập, ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh”.
          Cảm động biết bao khi một vị Chủ tịch nước, hàng năm cứ đến Ngày Thương binh liệt sĩ lại gửi thư cùng một tháng lương của mình, kèm đó, khi thì một bữa ăn, khi thì một món quà (do đồng bào gửi biếu) để tặng anh em thương binh. Với quan điểm khoa học và đầy tinh thần lạc quan “tàn nhưng không phế”, Bác khuyên anh em thương binh khi đã khôi phục sức khoẻ phải hăng hái tham gia công tác sản xuất để trở nên người công dân kiểu mẫu. Bác chúc các gia đình liệt sĩ trở thành những “gia đình cách mạng gương mẫu”.
          Gần 70 năm trôi qua kể từ Ngày Thương binh liệt sĩ đầu tiên ấy. Mỗi năm, cứ đến ngày 27/7, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta lại nhớ đến Bác và thêm tự hào về bước phát triển của công tác thương binh, liệt sĩ theo tư tưởng và sự chỉ đạo của Người.

          Hàng năm, ngày thương binh, liệt sĩ 27/7 đã trở thành một ngày toàn dân tưởng nhớ, tri ân những người có công với nước. Đảng và Nhà nước ta có nhiều chính sách ưu đãi về cả vật chất lẫn tinh thần đối với người có công cũng như gia đình và con em của họ. Nhưng tưởng nhớ, tri ân với người có công với nước không chỉ một ngày, một đợt, một lễ kỷ niệm mà cần hơn là những việc làm thiết thực, thường xuyên để giúp gia đình con em những người đã hi sinh, mang thương tật vơi bớt khó khăn trong cuộc sống.

Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của Ngày Thương binh - Liệt sĩ, ngày 27 tháng 7

Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của đất nước ta do Đảng lãnh đạo nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, làm nghĩa vụ quốc tế vô sản, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã hy sinh tính mạng, xương máu, cống hiến sức lực, trí tuệ và tài sản cho đất nước. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công lao to lớn của những người và gia đình có công với cách mạng.
Từ ngày 19 tháng 12 năm 1946 khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, số binh sĩ bị thương và hy sinh trong chiến đấu ngày càng tăng lên. Vấn đề thương binh, liệt sĩ trở thành vấn đề lớn và quan trọng. Ngày 16 tháng 02 năm 1947, Chính phủ ban hành chế độ “Hưu bổng thương tật” và “Tiền tuất cho thân nhân liệt sĩ”; đây là văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà nước ta thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với các chiến sĩ và gia đình liệt sĩ.
Tháng 6 năm 1947 tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, một hội nghị quan trọng của các cơ quan Chính phủ và các hội, đoàn thể chính trị ở Trung ương đã quyết định chọn ngày 27 tháng 7 năm 1947 làm Ngày Thương binh toàn quốc. Chiều ngày 27 tháng 7 năm 1947 tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn, đại biểu Ban Tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc trịnh trọng đọc bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc. Từ đó, vào dịp 27 tháng 7 hàng năm, nhân dân cả nước sôi nổi tổ chức các hoạt động quyên góp, giúp đỡ, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và đã trở thành ngày rất thiêng liêng, thể hiện sự tôn trọng, quý mến đối với những người đã vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà hy sinh xương máu.
Từ năm 1955, Đảng và Nhà nước quyết định đổi ngày “Thương binh toàn quốc” thành “Ngày Thương binh - Liệt sĩ” để thể hiện đầy đủ hơn tình cảm của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với những người đã hy sinh xương máu của mình cho Tổ quốc.
Trong Di chúc, Bác Hồ thiết tha căn dặn: “Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”; “Đối với cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”; “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh”.
Trước những mất mát, hi sinh của các thương binh, liệt sỹ cho dân tộc Việt Nam, trong 70 năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã luôn chú trọng làm tốt công tác “Đền ơn đáp nghĩa”; thể hiện tình cảm, đạo lý, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với những người đã cống hiến, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân, tạo nên phong trào cách mạng rộng lớn của toàn dân.
Ngày Thương binh - Liệt sĩ đã trở thành ngày truyền thống của đất nước, là ngày lễ quan trọng, hội tụ đầy đủ ý nghĩa chính trị, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của nhân dân ta. Hằng năm cứ đến ngày này, thế hệ trẻ hôm nay lại có nhiều nghĩa cử cao đẹp để thể hiện tấm lòng thành kính của mình đối với những người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Họ là những người con của Tổ quốc Việt Nam thân yêu, dám hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình cho dân tộc. Sự cống hiến, hi sinh của họ thể hiện rõ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, của truyền thống hơn bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Chúng ta có quyền tự hào về những người con ưu tú đó của dân tộc Việt Nam.
Đến nay, tuy chiến tranh đã đi qua nhưng những di chứng của chiến tranh vẫn còn hiện hữu. Nó để lại cho mỗi người, mỗi gia đình, bạn bè và người thân các thương binh, liệt sỹ. Ngoài những mất mát, hi sinh mà các anh đã vinh viễn mất đi ở chiến trường thì vẫn còn đó những di chứng, thương tật mà các anh còn để lại trên cơ thể của mình cũng như để lại cho thế hệ con cháu về sau này. Đó là các nạn nhân của chất độc màu da cam, đó là những đứa trẻ bị di chứng của chiến tranh do bố mẹ tham gia chiến trường…. Những nỗi đau đó vẫn còn hiện hữu, chưa thể nguôi ngoai trong nhiều gia đình, dòng họ. Thấy rõ được điều này, chúng ta càng cảm thông, chia sẻ hơn nữa cho hoàn cảnh của họ, đồng thời càng căm thù hơn đối với kẻ thù đã gieo rắc nên tội ác này.
Tổ chức kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tôn vinh các liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, những người và gia đình có công với nước; giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân đối với những người và gia đình có công; khơi dậy, phát huy tiềm năng to lớn của xã hội để chăm sóc tốt hơn nữa các đối tượng chính sách; đánh giá hiệu quả về lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện của Đảng, Nhà nước chăm lo cho người và gia đình có công cách mạng.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn trân trọng đánh giá cao những cống hiến, hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ đối với Tổ quốc; thông qua việc đề ra và thực hiện đầy đủ chính sách xã hội đối với nhữngngười và gia đình có công là động lực vật chất, tinh thần để cổ vũ, động viên các đối tượng chính sách vươn lên, vượt qua khó khăn, thử thách, làm chủ cuộc sống.
Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với công tác chăm lo người và gia đình có công là một hệ thống chủ trương, chính sách hoàn chỉnh, có hiệu lực và hiệu quả cao; các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân nhận thức đầy đủ về hệ thống chủ trương, chính sách đó và quyết tâm tổ chức thực hiện đầy đủ, có hiệu quả cao, thiết thực. Làm tốt chính sách đối với nhữngngười và gia đình có công thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Đảng, Nhà nước ta; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cơ sở cho giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.

Do đó, việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công là nghĩa vụ, trách nhiệm và niềm vinh dự của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và của mọi người, của thế hệ hôm nay. Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, nhân dịp kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ, chúng ta những người dân Việt Nam một lần nữa xin được kính cẩn nghiêng mình dâng lên các Anh hùng liệt sỹ ngọn nến tri ân, những vòng hoa tươi thắm, thắp nén tâm nhang xin bày tỏ lòng thành kính, thể hiện lòng biết ơn vô hạn đến các anh - những người con bất tử, đã hi sinh cho Tổ quốc./.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...