Sau hai mươi năm rời Tổ quốc ra
nước ngoài tìm đường cứu nước (5-6-1911), đến đầu năm 1930, với sự kiện Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam được hình thành về cơ bản. Tư tưởng đó thấm vào đường
lối cách mạng của Đảng, vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước, vào từng
con người Việt Nam làm nên thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám năm
1945. Đó là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn
liền chủ nghĩa xã hội. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Chánh cương vắn tắt
của Đảng ghi rõ: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây chính là nội dung độc lập dân tộc đi tới
chủ nghĩa xã hội, sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt
Nam. Tuy nhiên, giai đoạn từ 1930 đến Cách mạng Tháng Tám, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có một sắc thái biểu hiện riêng, khá độc đáo.
Đó là độc lập dân tộc là mục tiêu trước mắt, nhiệm vụ hàng đầu, cốt yếu của
Đảng và toàn dân tộc. Hồ Chí Minh phân tích rõ Pháp - Nhật không phải chỉ
là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc. Vì vậy trước hết phải giải
phóng cho được dân tộc khỏi ách của giặc Pháp - Nhật.
Đó là tư tưởng về lãnh đạo và lực lượng
cách mạng. Tư tưởng này được quy định bởi việc xác định tính chất cách mạng
và kẻ thù của cách mạng. Chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc là nhằm
giải quyết mâu thuẫn dân tộc giữa một bên là toàn phân tích khoa học rằng, “vì
bị áp bức mà sinh ra cách mạng, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách
mạng càng bền, chí cách mạng càng quyết.
Tất cả các lực lượng đó phải do giai cấp công nhân lãnh đạo thông
qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Đảng phải vững bền, bền gan, hy sinh,
thống nhất. Cách mạng phải có Đảng lãnh đạo để “trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi.
Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền
mới chạy”. Xác định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu đưa cách
mạng thắng lợi có ý nghĩa quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
Đó là tư tưởng về nền tảng lý luận của
Đảng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh dẫn Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có
cách mệnh vận động. Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh
mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”. Quá trình tìm đường cứu nước và
chuẩn bị thành lập Đảng là quá trình Hồ Chí Minh nghiên cứu, khảo sát, so sánh
các học thuyết trên thế giới. Người đã biết tới lý luận của cách mạng tư sản,
cách mạng vô sản, tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Cách mạng Mỹ 1776
và Cách mạng tư sản Pháp năm 1789. Trên cơ sở đó, Người đã rút ra kết luận “bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mạng nhất, khoa học nhất là chủ nghĩa Lênin”. Không nắm vững
chủ nghĩa Mác - Lênin giống như người một mắt sáng một mắt mờ, dễ xa rời con
đường cách mạng.
Đó là tư tưởng về phương pháp cách mạng. Ngay từ tuổi thiếu niên, khi còn ở trong nước, mặc dù rất khâm
phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,
nhưng Nguyễn Tất Thành không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào.
Bởi vì cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, đó là
cách làm “xin Pháp rủ lòng thương”. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để
đuổi Pháp, đó là cách làm “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám
còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp, nhưng vẫn còn nặng cốt cách
phong kiến. Hồ Chí Minh xác định phải đi ra nước ngoài, tìm hiểu, khám phá thế
giới, xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào chúng ta. Đó là tư duy về một phương pháp
cách mạng mới. Vì vậy, chúng ta phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại chúng.
Bạo lực đó trước hết phải là “công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Tư tưởng tự lực tự cường đã được
truyền đạt trong các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu thời gian 1925-1927.
Hồ Chí Minh đã thành công trong việc lập tổ chức vững bền là Mặt trận Việt Minh do Đảng cộng sản Đông Dương
lãnh đạo.
Để đi tới Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh kêu gọi “Dân
tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”; “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải giành cho kỳ được độc lập, tự do”. Khi thời cơ đến, nhanh chóng chớp lấy
thời cơ ngàn năm có một, phát động toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính
quyền. Giữa tháng 8-1945, Hồ Chí Minh có Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng
bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Và chúng ta đã được giải
phóng nhờ phương pháp cách mạng khoa học.
Năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tư tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành về cơ bản. Từ năm 1930 trở đi, tư tưởng đó từng bước được hiện
thực hóa, làm chuyển hóa phong trào cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ
là người hoạch định đường lối, xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc mà
còn là người tổ chức, kiến tạo phong trào cách mạng. Người là người tìm đường,
mở đường, dẫn đường và thiết kế tương lai. Đến giữa tháng 8-1945, khi thời cơ
đến, Hồ Chí Minh đã kịp thời phát động toàn dân nổi dậy giành chính quyền. Cách
mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở ra một kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do.
Cách mạng Tháng Tám thành công là nhờ vũ khí không gì thay thế
được là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đúng đắn của
Đảng. Đảng ta và Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, khơi dậy sức mạnh của cả dân tộc “rũ
bùn đứng dậy chói lòa”, làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám lẫy lừng, “biến người
nô lệ thành người tự do”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét