Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời chưa
được bao lâu, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược nước ta. “Không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ”, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu chặn tay quân xâm
lược. Trong những tháng, năm đầu của cuộc kháng chiến, nhiều đồng bào, chiến sĩ
đã ngã xuống, đã đổ máu trên các chiến trường.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ -
ngày 19 tháng 12 năm 1946, theo lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả
nước nhất tề đứng lên kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên, thương binh liệt
sĩ trở thành vấn đề lớn.
Trước yêu cầu bức xúc đó, cùng với việc
kêu gọi giúp đỡ thương binh gia đình tử sĩ, ngày 16/2/1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử
sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác
thương binh liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.
Để chỉ đạo công tác thương binh tử sĩ
trong cả nước, ngày 26/2/1947, Phòng thương binh thuộc Chính trị Cục, quân đội
quốc gia Việt Nam được thành lập. Đầu tháng 7/1947 Ban Vận động tổ chức “Ngày
Thương binh toàn quốc” được thành lập.
Cùng thời gian này, tại xóm Bàn Cờ, xã
Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, các đại biểu Tổng bộ Việt Minh, Trung
ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, Nha Thông tin
tuyên truyền và một số địa phương đã dự một cuộc họp. Tại cuộc họp này, theo đề
nghị của đại diện Chính trị Cục quân đội Quốc gia Việt Nam các đại biểu đã nhất
trí chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là ngày Thương binh toàn quốc.
Chiều ngày 27/7/1947, “Ngày thương binh
toàn quốc”, mở đầu bằng cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại xã Hùng Sơn, huyện
Đại Từ (Thái Nguyên). Tại cuộc mít tinh, các đại biểu đã nghe đại diện Chính
trị Cục Quân đội Quốc gia Việt Nam đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban
Thường trực của Ban Tổ chức ngày thương binh toàn quốc.
Trong thư Người đã viết: “… Thương binh là
những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích
của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu… Vì vậy, Tổ quốc và đồng
bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy…”.
Từ đó, đến ngày 27/7 hàng năm, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đều gửi thư thăm hỏi, động viên các thương binh, gia đình liệt sĩ và
nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt
sĩ.
Ngày thương binh, tử sĩ 27/7/1948, trong
Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “… Thương binh và tử sĩ đã hy sinh cho
Tổ quốc, đã hy sinh cho đồng bào. Để báo đáp công ơn đó, Chính phủ phải tìm mọi
cách để giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ. Tôi cũng rất mong đồng
bào sẵn sàng giúp đỡ họ về mặt vật chất và tinh thần…”.
Đảng,
Nhà nước ta luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và
lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, của các thế hệ đối với liệt sỹ,
gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh và người có công với cách mạng. Sự
cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của
nhân dân là vô giá, không chỉ cho ngày hôm qua, hôm nay mà cho muôn đời con,
cháu mai sau. Việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công là
nghĩa vụ, trách nhiệm và niềm vinh dự của các cấp, các ngành, các tổ chức xã
hội và của mọi người, của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Làm tốt
công tác đối với thương binh, liệt sỹ và Người có công với cách mạng thể hiện
tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, củng cố niềm tin của nhân dân
ta vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, góp phần tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cơ sở cho giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét