Ở Việt Nam các tôn
giáo đều có đóng góp nhất định cho đất nước trên nhiều phương diện của đời sống
xã hội đồng thời là một nhân tố văn hoá – xã hội tích cực góp phần làm cho nền
văn hoá Việt Nam phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Các tôn giáo du
nhập từ bên ngoài cũng có quá trình tiếp biến với văn hoá Việt, tạo ra nét
riêng của tôn giáo Việt Nam. Việt Nam là đất nước ôn hoà trong quan hệ giữa các
tôn giáo; có truyền thống đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc trong quá trình dựng
nước và giữ nước. Việc chung sống hoà bình, bao dung giữa các tôn giáo cùng với
tính nhân ái, nhân văn của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức tranh
sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo, thể hiện phong phú, đan xen lẫn nhau.
Hiến pháp năm 1946 và các văn bản sau này của Việt Nam luôn khẳng định quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong các quyền cơ bản của con người. Hiến
pháp năm 2013 quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi người.
Hiện nay, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có nhiều chuyển biến
tích cực. Số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo tăng. Báo cáo của Ban
tôn giáo Chính phủ tại hội nghị tổng kết của Bộ Nội vụ ngày 12/1 cho biết,
trong năm 2021, số lượng tín đồ tôn giáo ở Việt Nam tăng hơn 57.000 người so với
năm 2020. Trong khi đó, số lượng chức sắc lại giảm 125 người; chức việc giảm
hơn 2.000 người (do một số địa phương xác định lại số chức việc theo quy định của
Luật tín ngưỡng, tôn giáo); cơ sở thờ tự tăng 358 cơ sở. Nhà nước đã công nhận
36 tổ chức tôn giáo; cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 04 tổ
chức và một pháp môn tu hành thuộc 16 tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Đạo Tin
Lành, Đạo Cao Đài, Đạo Hoà Hảo….).
Báo cáo của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo cũng cho biết, tính đến
tháng 11/2021, Việt Nam có hơn 26,5 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm 27% dân số cả
nước, hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự; hàng ngàn
nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập
trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Có 43 tổ chức thuộc 16
tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Nhiều hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo quy mô lớn, thu hút tín đồ, người dân tham dự.
Nội dung trong Sách trắng có giới thiệu về 16 tôn giáo phổ biến ở Việt Nam;
cung cấp thông tin về quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ
đổi mới; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo quy định trong Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; những quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
trong văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; thành tựu, thách thức và ưu tiên của
Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngoài ra có phần
phụ lục giới thiệu một số hình ảnh về tôn giáo, đời sống tôn giáo ở Việt Nam; số
liệu về tôn giáo; danh mục tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng
ký hoạt động tôn giáo.
Thế nhưng, khi ra mắt Sách trắng Tôn giáo, các tổ chức, cá nhân chống đối
đã có những bài viết, bình luận sai trái, đánh giá một cách tiêu cực về cuốn
sách này. Họ đưa ra những bài viết cho rằng, việc cho ra đời cuốn sách này là “bức
bình phong” nhằm che đậy các vi phạm kéo dài tại Việt Nam, nguyên nhân đã khiến
Washington đưa Hà Nội vào danh sách theo dõi đặc biệt về tôn giáo.
Những đánh giá này được dựa trên nhận định của số đối tượng cực đoan, chống
đối trong các tôn giáo, đây là các phần tử chống đối, có quá trình tu tập kém,
ít chăm lo cho việc đạo nên uy tín, ảnh hưởng trong giáo hội xếp hạng thấp,
năng lực yếu kém, không được trọng dụng. Do đó, những phát ngôn, nhận định nêu
trên cũng chỉ mang tính chủ quan, phiến diện một chiều, không thể coi là “đại
diện cho tiếng nói tôn giáo”, càng không có giá trị tham khảo.
Có thể thấy, việc phê phán Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam” là một chiêu trò nhằm chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tôn giáo ở Việt
Nam hòng phủ nhận những thành quả từ những chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước
ta. Qua đó lấy cớ phủ nhận chính sách của Đảng, Nhà nước và thành quả trong việc
đảm bảo quyền tự do tôn giáo cho người dân.
Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo Hiến chương,
Điều lệ và quy định pháp luật, bảo đảm sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng
bào dân tộc thiểu số; người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam và người chấp
hành án phạt tù. Nhà nước cũng khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức tôn
giáo phát huy nguồn lực tham gia các hoạt động an sinh xã hội. Các vấn đề đất
đai liên quan đến tôn giáo luôn được nhà nước quan tâm giải quyết. Ngày nay, sự
đồng thuận giữa các tôn giáo và Nhà nước thể hiện rất rõ bằng truyền thống đại
đoàn kết toàn dân tộc trong đó có đoàn kết các tôn giáo là nguồn sức mạnh to lớn
góp phần thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét