Chủ nghĩa cơ hội là hệ thống quan điểm chính trị không theo một
định hướng, một đường lối rõ rệt, không có chính kiến, thường xuyên ngả nghiêng
nhằm mưu lợi trước mắt. Chủ nghĩa cơ hội được thể hiện thành đường lối chính
trị thỏa hiệp, cải lương, hợp tác, nhân nhượng vô nguyên tắc với kẻ thù, trái
với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh theo đuổi con đường cải biến một cách
hòa bình chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, từ bỏ đấu tranh giai cấp và
mục tiêu giành chính quyền về tay giai cấp công nhân. Chủ nghĩa cơ hội “tả”
khuynh là sự pha trộn giữa cực đoan và phiêu lưu, giáo điều, manh động, chủ
quan, sùng bái bạo lực, bất chấp mọi điều kiện khách quan. Chủ nghĩa cơ hội hữu
khuynh hay “tả” khuynh đều đẩy phong trào cách mạng đi đến tổn thất, thậm chí
thất bại nặng nề.
Từ ngày thành lập năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam rất
coi trọng công tác tư tưởng, trong đó một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên là
bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng và đường lối đúng đắn của Đảng, đấu tranh
kịp thời và kiên quyết phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Một số biểu
hiện cơ hội dưới hai hình thức “tả” khuynh và hữu khuynh với mức độ khác nhau
đã từng xuất hiện trong những thời điểm khó khăn và trước các bước ngoặt vận
động của phong trào cách mạng.
Trong những năm đầu lãnh đạo cách mạng, trong Đảng có những xu
hướng cơ hội “tả” khuynh và hữu phái cả về lý thuyết và thực hành, như Đại hội
I (3-1935) của Đảng đã nhận định: “Đảng Đại hội xét rằng hiện thời trong Đảng
ta còn có nhiều xu hướng đầu cơ “tả” khuynh và hữu phái cả về lý thuyết và thực
hành”. Trong thời kỳ cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức (1954-1958), việc
lãnh đạo tư tưởng đã có nhiều lệch lạc, cứ một chiều nhấn mạnh chống hữu
khuynh, gây ra một cao trào chống hữu trong Đảng, không chú ý đến việc phòng
“tả” do đó mà những sai lầm “tả” khuynh càng trở nên trầm trọng, như Nghị quyết
Trung ương 10 (mở rộng) khóa II về công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ
chức đã kịp thời vạch rõ. Do đó, Đảng chỉ rõ cần: “Chống những tư tưởng tả
khuynh, hữu khuynh trong khi chưa phát động quần chúng”.
Trong thời kỳ 1976-1986, Đảng đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí,
lối suy nghĩ và hành động nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan, khuynh
hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh,
vừa hữu khuynh, như Đại hội VI (1986) của Đảng nhận định, đánh giá: “Nguồn gốc
là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” vừa hữu”.
Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch hiện nay đang được triển khai sâu rộng trong toàn
Đảng và xã hội, đã đạt nhiều kết quả tích cực, rõ rệt và cần tiếp tục đẩy mạnh
với chất lượng, hiệu quả cao hơn nữa. Trong quá trình này, cần làm sáng tỏ hơn
các nguyên tắc cơ bản của công tác tư tưởng, cuộc đấu tranh tư tưởng nói chung,
trong đó có nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch vì mục tiêu CNXH. Xin nhấn mạnh 5 nguyên tắc sau:
Một là, phải xem đấu tranh tư tưởng, phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch là nhiệm vụ thường xuyên. Các quan điểm sai trái, thù địch và
chủ nghĩa cơ hội cả xét lại hữu khuynh và giáo điều “tả” khuynh đều không sinh
ra từ hư vô. Chúng có nguồn gốc kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị rất phức
tạp và hiện hữu! Một khi các cơ sở kinh tế của chế độ TBCN, trong đó có các
quan hệ sản xuất TBCN, vẫn tồn tại và thậm chí vẫn còn tiềm năng phát triển như
hiện nay, thì tất yếu sẽ nuôi dưỡng không ít lực lượng xã hội gắn bó một cách
sống còn với CNTB, không thể tương dung với hệ tư tưởng cộng sản và chế độ
XHCN. Mặt khác, giai cấp công nhân và các lực lượng cách mạng khác đều phải có
một quá trình rèn luyện lâu dài mới trưởng thành từ giai cấp “tự nó” thành giai
cấp “cho nó”. Trong quá trình ấy, một số người rơi vào hạn chế, sai lầm, trượt
vào quỹ đạo của tư tưởng tư sản; thậm chí, một số người đã trở thành kẻ “giữ
cửa” cho chế độ TBCN. Cũng phải kể thêm, cuộc khủng hoảng, đổ vỡ của CNXH hiện
thực cuối thế kỷ XX và những khó khăn, hạn chế của các mô hình XHCN thế giới
hiện nay đang tạo ra mảnh đất lợi hại cho các giọng điệu cơ hội, sai trái, thù
địch xuất hiện và lây lan nhanh chóng.
Những nhân tố nêu trên chính là cơ sở kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa cơ hội nói chung và các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng đang chống
phá hệ tư tưởng cộng sản và CNXH trên thế giới. Công cuộc xây dựng CNXH không
thể ngay lập tức loại bỏ cơ sở kinh tế - xã hội lợi hại ấy, mà phải thông qua
quá trình cải tạo, phát triển lâu dài theo nguyên tắc: suy cho cùng, một sức
mạnh vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng một lực lượng vật chất khác. Vì vậy,
các lực lực cộng sản và cách mạng phải duy trì thường trực ý thức đấu tranh và
thường xuyên đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình, phê phán, loại bỏ mọi
khuynh hướng tư tưởng cơ hội, sai lầm, sai trái, chống đối, thù địch, phản
động.
Hai là, những chiến sĩ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phải rèn luyện và giữ vững quan
điểm, lập trường và niềm tin cộng sản. Nếu như trên lĩnh vực kinh tế, CNXH có
thể và cần thiết phải tạo không gian cho các thành phần kinh tế tư bản phát
triển, phải sử dụng những khâu trung gian, phải kết hợp những mặt đối lập, phải
bắt CNTB nhà nước “cày” trên “thửa ruộng” XHCN...; hoặc trên lĩnh vực chính
trị, những người cách mạng, trong không ít trường hợp, có thể và cần biết tiến
hành nhân nhượng, thỏa hiệp với kẻ thù, nhưng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng,
không bao giờ có vị trí trung dung, không chấp nhận bất kỳ sự nhân nhượng, thỏa
hiệp nào. Nếu không vững vàng ở lập trường bên này, thì nhất định sẽ trượt sang
lập trường bên đối lập. Bởi vậy, chuẩn bị kiến thức và rèn luyện ý thức, lập
trường, bản lĩnh cho cuộc đấu tranh tư tưởng cần được chú trọng ngay từ đầu, ở
mức nghiêm ngặt nhất và trong suốt quá trình đấu tranh lâu dài, đầy cạm bẫy
trước các quan điểm cơ hội, sai trái, thù địch.
Bước vào mặt trận đấu tranh tư tưởng, người chiến sĩ cộng sản
rất cần được trang bị niềm tin cách mạng vững vàng, kiên trung. Trước kia cũng
như hiện nay, không ít luận điệu cho rằng, chỉ có thể tin tưởng và xây dựng
được niềm tin về một vấn đề gì đó khi có đầy đủ nhận thức về nó. Đây là một
giọng điệu ngụy biện rất nguy hiểm! Đúng là nhận thức khoa học là một trong
những cơ sở quan trọng của niềm tin cách mạng. Nhưng đối với từng người và
trong thời điểm cụ thể, không thể nhận thức đúng đắn mọi vấn đề liên quan đến
sự nghiệp cách mạng. Trong bối cảnh ấy, cần hơn hết một niềm tin cách mạng mãnh
liệt, tuyệt nhiên không được dao động, càng không được nhường trận địa cho các
khuynh hướng tư tưởng khác.
Ba là, phải kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tiễn, xác định
đúng trọng tâm, trọng điểm trong từng thời kỳ, giai đoạn, bối cảnh cụ thể của
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch. Những phần tử cơ hội hiện nay thường rất khôn ngoan, viện cớ từ những vấn
đề, hiện tượng cụ thể để phê phán, bác bỏ toàn bộ đường lối, chủ trương của
Đảng, thậm chí xuyên tạc cả con đường, mục tiêu phát triển của đất nước. Trong
tình hình như vậy, các chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng cần bám sát thực tiễn,
thường xuyên tổng kết thực tiễn và vận dụng kiến thức lý luận để phản bác một
cách thuyết phục mọi quan điểm sai trái, thù địch.
Hiện nay và trong những năm tới, một số trọng tâm, trọng điểm
cần được ưu tiên là: bảo vệ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; sự thống nhất giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh; con đường độc lập dân tộc và CNXH; vai trò lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam; những thành tựu vĩ đại của quá trình cách mạng từ năm
1930 đến nay, trong đó có những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công
cuộc đổi mới; đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới; nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN; nền dân chủ XHCN và hệ thống chính trị Việt Nam; nền quốc
phòng toàn dân và an ninh quốc gia; đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, tự
chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa...
Bốn là, huy động, tổ chức nhiều lực lượng xã hội tham gia đấu
tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, bởi vậy, cuộc đấu tranh bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng cũng phải trở thành cuộc đấu tranh của nhân dân bảo vệ
sự nghiệp cách mạng, bảo vệ con đường độc lập, tự do, hạnh phúc. Đảng là đội
tiền phong lãnh đạo; cán bộ, đảng viên là các chiến sĩ xung kích nhưng lực
lượng đấu tranh nhất thiết phải là toàn dân, của mọi tầng lớp xã hội.
Trong những năm vừa qua, bên cạnh những lực lượng chủ chốt trên
mặt trận đấu tranh tư tưởng, đã xuất hiện lực lượng mới phát huy rất hiệu quả.
Những tiếng nói khách quan, trung thực của đại biểu người Việt Nam ở nước
ngoài, trong đó có cả một số nhân vật thuộc bộ máy chính quyền chế độ cũ nói về
tình hình đất nước và chủ trương, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, như
thực tế đã chứng minh, có sức mạnh thuyết phục, lan tỏa rất lớn đến cộng đồng
hàng triệu đồng bào xa xứ. Những ghi nhận của các chức sắc tôn giáo và bà con
giáo dân về tự do tôn giáo ở Việt Nam, có giá trị phản bác mạnh mẽ đối với
nhiều luận điệu sai trái trong các báo cáo về tôn giáo, nhân quyền trên thế
giới. Để tuyên truyền hiệu quả đến tuổi trẻ, học sinh, sinh viên, phương án tối
ưu là có những tiếng nói, cây bút, diễn đàn của chính thế hệ trẻ... không nên
tuyệt đối hóa một lực lượng nào đó; cũng không nên nhất loạt một nội dung, hình
thức đấu tranh; càng không nên máy móc sử dụng cách nói, cách viết, cách thể
hiện đối với đối tượng này để áp dụng với các đối tượng khác...
Năm là, thông qua hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch, cần phát triển lý luận, củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thực tế lịch sử chứng minh rằng, cứ mỗi lần đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin lại củng cố, bổ sung, phát triển lý
luận. Một số tác phẩm tiêu biểu như: Phê phán chính trị kinh tế học năm 1844,
Chống Đuy Rinh năm 1877, Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung và triết học cổ điển
Đức năm 1888, Làm gì? năm 1901, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky năm
1918, Bệnh ấu trĩ “tả” khuynh trong phong trào cộng sản năm 1918... là những
tác phẩm kinh điển tiêu biểu chống chủ nghĩa cơ hội; đồng thời, là những tác
phẩm đánh dấu những bước phát triển quan trọng của hệ tư tưởng vô sản.
Ngày nay, Đảng và nhân dân Việt Nam đang thực hiện những nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ CNXH trong bối cảnh quốc gia và quốc tế rất khác với thời
đại của các nhà kinh điển; phải giải quyết hàng loạt vấn đề lý luận và thực
tiễn chưa từng có tiền lệ, nhưng rất sống còn: quá độ lên CNXH từ xuất phát
điểm tiền TBCN và trong hoàn cảnh đầy khó khăn của cách mạng thế giới; nhận
thức về CNXH trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư;
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nền văn hóa và con người XHCN; nội
dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền duy nhất của Đảng... Cần đẩy mạnh nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và thông qua đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch, kịp thời bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận và nền tảng
tư tưởng của Đảng trên những vấn đề căn cốt này.
Nhìn lại lịch sử phong trào cộng sản quốc tế và lịch sử cách
mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay, chúng ta thật sự tự hào về những trang sử vẻ
vang, về sự trưởng thành vững mạnh của hệ tư tưởng vô sản và sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ CNXH. Mặt khác, cũng chính thực tiễn lịch sử ấy lại cho chúng ta
những bài học sống còn về nhiệm vụ thường xuyên, kiên quyết đấu tranh chống mọi
biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và “tả” khuynh; phản bác kịp thời các
quan điểm sai trái, thù địch và bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng của chính
Đảng tiền phong ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
Trước
mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của cả nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045,
Đại hội XIII (2021) của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; đặc biệt coi trọng
và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
tổ chức và cán bộ. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và
thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính
trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét