Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017

Giáo dục đạo đức, lối sống là nhiệm vụ cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng hiện nay

Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm đảm bảo cho Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo ,sức chiến đấu cao, xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc. Từ khi ra đời đến nay, tùy theo tình hình và nhiệm vụ cách mạng từng thời kỳ mà Đảng xác định những vấn đề cần tập trung cho công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng cho phù hợp, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị ,xây dựng Đảng thêm vững mạnh. Hội nghị Trung ương 4, khóa XII đã Ban hành Nghị quyết số 04 – NQ/TW về tăng cường chỉnh đốn Đảng, đấu tranh ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Như vậy, Đảng ta khẳng định xây dựng, chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ then chốt mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay. Đảng ta xác định: Trong tình hình hiện nay việc xây dựng ,chỉnh đốn Đảng chủ yếu nhằm vào khắc phục những lệch lạc về chính trị, đạo đức, lối sống, sự thoái hóa biến chất trong đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tình trạng cồng kềnh hoạt đông kém hiệu lực, hiệu quả của bộ máy tổ chức, thực hiện không nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng khác .
Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng phải có biện pháp nhằm phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố chỉnh đốn, để Đảng ta ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ. Do đó tăng cường hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên là một trong những nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Mỗi cán bộ đảng viên của Đảng trong quân đội, cũng là tế bào của Đảng, vì vậy cần phải quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 04 - NQ/TW về tăng cường chỉnh đốn Đảng, đấu tranh ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Từng cán bộ đảng viên cũng như từng cấp uỷ, chi bộ đảng trong Quân đội phải cụ thể hoá những nội dung của Đảng vào điều kiện công tác, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan, đơn vị và lĩnh vực hoạt động của mình, để có nội dung biện pháp thích hợp trong công tác giáo dục đạo đức lối sống cho cán bộ, đảng viên trong đơn vị mình, chỉ có như vậy, mới góp phần thiết thực vào cuộc vận động chung của toàn Đảng là xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưỏng và tổ chức. Đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn cách mạng mới./.

Sức mạnh, niềm tin của dân tộc Việt Nam

Từ buổi đầu cách mạng, nhân dân Việt Nam muôn người như một đã đặt niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và chính sức mạnh niềm tin đó đã kết nối, nhân lên sức mạnh đoàn kết cả dân tộc để làm nên những chiến thắng vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong hơn 85 năm qua.
Trong hai cuộc chiến tranh giải phóng, bảo vệ Tổ quốc, dù dân trí thấp nhưng mọi người đều hiểu rằng không có con đường nào khác là phải theo Đảng đánh đuổi quân xâm lược cứu nước, cứu nhà. Đảng tin dân, gắn bó máu thịt với dân, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên gần gũi nhân dân, đảng viên luôn xung phong đi đầu ở nơi gian khổ nhất, hy sinh cao nhất, đúng là “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Liêm khiết, tận tụy, hy sinh của cán bộ, đảng viên tạo nên tấm gương mẫu mực nhất cho người dân noi theo, nhân dân thật sự “tâm phục, khẩu phục” đối với Đảng. Đó là niềm tin tất thắng, sức mạnh Việt Nam.
Trong ánh sáng lấp lánh của thời bình, cuộc vật lộn giữa cái sống và cái chết trong chiến tranh đã được thay thế bằng cuộc giằng co giữa cái sướng và cái khổ, giữa cống hiến và hưởng thụ. Đất nước đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, dẫn tới có sự thay đổi rất lớn theo chiều hướng không thuận cho việc dân gắn bó máu thịt với Đảng, đi theo Đảng làm cách mạng XHCN. Trên trận tuyến đó, trong lý trí và tình cảm người dân, kẻ thù của dân tộc và của chính người dân không còn hiện nguyên hình như trước mà chập chờn, mờ nhạt, thậm chí không nhìn thấy. Trong khi đó một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất gây ra những tệ nạn nội sinh ăn sâu, bám rễ vào đời sống, phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, tham nhũng, lãng phí, bè phái, cục bộ, mất đoàn kết, quan liêu, xa hoa, hưởng lạc.
Nhân dân thật sự lo lắng, bức xúc khi khuyết điểm nghiêm trọng, kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chậm được khắc phục, chưa ngăn chặn, đẩy lùi được, hậu quả là làm giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng, làm tổn hại uy tín, thanh danh của Đảng, Nhà nước. Trong những khuyết điểm đó, người dân oán thán nhất, mất lòng tin nhất là tình trạng tham những. Và ngay cả đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng phải đánh giá, bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu-nghèo, có người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động, liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không? Mai kia Đảng này sẽ là Đảng của ai? Việc giảm lòng tin của dân đối với Đảng không phải do số lượng đảng viên thoái hóa, biến chất. Trong 3,6 triệu đảng viên hiện nay, nếu một bộ phận không nhỏ đảng viên thường (không giữ chức vụ quan trọng) hư hỏng thì chưa có gì hệ trọng. Nhưng nếu một bộ phận đảng viên giữ các vị trí chủ chốt hư hỏng thì đó là một vấn nạn lớn của Đảng và nhân dân. Nếu chủ quan, không có nhận thức đúng đắn, nghiêm túc ắt phải trả giá bằng sự đối phó bị động, lúng túng một khi bất ngờ xảy ra.
Để có được uy tín lâu dài, bền vững đối với nhân dân, toàn Đảng cũng như mỗi tổ chức Đảng, từng đảng viên phải chứng tỏ bằng hành động thực tế rằng mình là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, phải giữ được hình ảnh cao đẹp, sức thuyết phục về trí tuệ, phẩm chất đạo đức trong sáng của mình. Ở đâu tổ chức Đảng che giấu khuyết điểm, bao che cho những yếu kém, tiêu cực của đảng viên, đặc biệt các vụ việc tham nhũng không được xử lý nghiêm minh thì ở đó, quần chúng nhân dân mất lòng tin vào tổ chức Đảng và dần dần họ xa rời Đảng. Phải khẳng định rằng dân ta còn nặng nghĩa, nặng tình với Đảng, họ không mất niềm tin vào đường lối, không mất niềm tin vào Đảng mà chỉ mất lòng tin vào một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất. Lại cũng phải thấy rằng phê phán đúng đắn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 đã chỉ ra là một phương pháp, một con đường củng cố niềm tin sâu sắc và đích thực đối với quần chúng nhân dân và nó sẽ tác động mạnh mẽ, có tính quyết định đối với cuộc đấu tranh chống tiêu cực của toàn xã hội.

Mặc dầu niềm tin đang có biểu hiện suy giảm xói mòn, thậm chí có nơi, có lúc người ta “đánh mất” niềm tin nhưng ý Đảng hợp với lòng dân, nhân dân tin yêu, gắn bó mật thiết với Đảng, thừa nhận sự lãnh đạo duy nhất của Đảng. Đây chính là sức mạnh niềm tin, nhân lên nội lực Việt Nam.

Phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Như chúng ta đã biết sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Đại hội lần thứ XII của Đảng đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Coi đó là nhiệm vụ đầu tiên trong 6 nhiệm vụ trọng tâm trong suốt nhiệm kỳ.
Đối với Đảng bộ Quân đội, mặc dù tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, song, không phải không có những biểu hiện vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống, kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước, mất đoàn kết, đề cao vai trò của vũ khí, coi nhẹ yếu tố chính trị - tinh thần, xa rời nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội,… ở một bộ phận cán bộ, chiến sĩ. Điều đó, dễ bị kẻ địch lợi dụng, chống phá, làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng, sức mạnh chiến đấu của Quân đội.
Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên của cán bộ, đảng viên đang thực sự trở thành một trong những nguy cơ hàng đầu đối với sự tồn tại, phát triển của Đảng, chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cần sớm được khắc phục. Nguyên nhân của nó, có cả khách quan và chủ quan, trước hết là sự chống phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”; song, chủ yếu là do việc quản lý, giáo dục, tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Yêu cầu đặt ra đối với phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, là phòng ngừa, triệt tiêu cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thoái hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vấn đề này ngày nay, trở thành nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, cũng như mỗi tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, cần được tiến hành đồng bộ các chủ trương, giải pháp. Trong đó, thực hiện tốt mấy vấn đề sau:
Một là, kiên quyết đấu tranh bảo vệ, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là điều kiện tiên quyết trong cuộc đấu tranh quyết liệt, phức tạp này. Theo đó, toàn Đảng cần kiên trì và chủ động đấu tranh bác bỏ các quan điểm, tư tưởng sai trái, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Để giành thắng lợi, mà trước hết là chiến thắng được chính mình, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải được chuẩn bị hành trang về nhận thức, bản lĩnh chính trị và phương pháp luận khoa học, từ đó nâng cao khả năng “tự miễn dịch” từ bên trong, và ngay khi còn là mầm mống. Từng tổ chức, cơ quan, đơn vị cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng viên thấm nhuần bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó vẫn là hệ tư tưởng tiến bộ, nhân văn nhất, là cơ sở, phương pháp luận để xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, vì hòa bình và hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ của loài người. Trong tuyên truyền, giáo dục, phải nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu, tránh xuôi chiều, nhàm chán, phản cảm. Cùng với đó, cần đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua đó, củng cố niềm tin, kiên định với mục tiêu lý tưởng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo bước chuyển biến mang tính đột phá trong phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, không để các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đất nước ổn định, kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao thì chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động sẽ không có “đất” để tác oai tác quái. Bài học giữ vững ổn định về chính trị, phát triển kinh tế trong những năm đổi mới vừa qua đã khẳng định điều đó. Vì vậy, trong những năm tới, việc tổ chức thực hiện hiệu quả các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, nhất là Nghị quyết Đại hội XII là rất quan trọng. Muốn vậy, trong từng chiến lược, chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội phải được chuẩn bị kỹ, có phản biện khoa học, tránh chủ quan, nóng vội. Những vấn đề mới mang tính toàn cầu, khu vực, quốc gia như: biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, sinh thái, giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, quan hệ quốc tế,... Đảng, Nhà nước cần phát huy dân chủ, tranh thủ tối đa sự tham gia đóng góp của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, các nhà khoa học, của nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước để có sách lược, chiến lược phù hợp, sự đồng thuận trong xã hội. Cùng với đó, đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm, là giải pháp quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Ba là, tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên về mọi mặt, nhất là về đạo đức cách mạng, nâng cao sức tự đề kháng trước những tác động của mặt trái kinh tế thị trường, sự cám dỗ, mua chuộc, lôi kéo của các thế lực thù địch. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tiến hành đồng bộ các giải pháp; trong đó, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị (khóa XII) gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng phải được coi là giải pháp cơ bản, thường xuyên, cần được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả. Tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót của cán bộ, đảng viên ngay từ khi mới nhen nhóm, phát sinh, với phương châm: “chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính, tự bảo vệ mình là chính”; thực hiện nghiêm các nguyên tắc, quy trình công tác cán bộ, bảo đảm thực sự dân chủ, khách quan, làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Đề cao vai trò người đứng đầu, thực hiện nói đi đôi với làm, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, thực sự mẫu mực về mọi mặt để cán bộ, đảng viên noi theo. Phát huy vai trò tự học, tự rèn của cán bộ, đảng viên, xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước, quy định về những điều đảng viên không được làm, v.v.
Bốn là, đẩy mạnh đấu tranh, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân. Đây là giải pháp rất quan trọng nhằm bảo đảm cho lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Để đạt được mục tiêu, yêu cầu đó đòi hỏi, phải xây dựng Đảng bộ Quân đội thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Cấp ủy, chỉ huy các cấp phải thường xuyên chăm lo giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên theo đúng nguyên tắc, Điều lệ Đảng, kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước để họ thực sự là những người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, làm nòng cốt xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Ở từng cấp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng đối với bộ đội, làm cho mọi cán bộ, đảng viên luôn thấu triệt đường lối, quan điểm của Đảng, nhiệm vụ được giao, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.


Một số giải pháp ngăn ngừa, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng

Hiện nay, cùng với “Diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một thực tế đang tồn tại ở nước ta với những biểu hiện ở các mức độ và phạm vi cụ thể khác nhau, và ngày càng có những diễn biến phức tạp, là một trong những nguy cơ đeo dọa sự tồn vong của chế độ XHCN. Do vậy, đấu tranh ngăn ngừa, đẩy lùi đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là hết sức cần thiết. Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đại hội XII của Đảng đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, đồng bộ, trong đó nhấn mạnh phải tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, với trọng tâm là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến", “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
 “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là quá trình “tự diễn biến” theo chiều hướng tiêu cực; là sự suy giảm, suy thoái về mặt chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến “tự chuyển hóa” trong tổ chức, con người, trước hết là trong tổ chức Đảng, tổ chức bộ máy nhà nước, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, ngày càng xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, xa rời lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xa rời Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xa rời đường lối của Đảng; sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, nhất là ngày càng xa rời những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa, trượt dần sang đạo đức, lối sống tư sản, hoặc quay về với những thói hư, tật xấu của đạo đức, lối sống phong kiến… sẽ dẫn tới “tự diễn biến", “tự chuyển hóa”.
“Tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” diễn ra từ bên trong từng con người và bên trong từng tổ chức. Theo đó, nguyên nhân của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chủ yếu từ chính trong con người, trong tổ chức. Đồng thời có cả nguyên nhân bên ngoài, sự chống phá của các thế lực thù địch. Tất cả tạo nên “hợp lực” thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Để góp phần đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay, cần thực hiện tốt một số giải pháp như sau:
Một là, cần thường xuyên tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội… cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Hai là, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; thấy rõ những hạn chế, bất cập không thể tránh khỏi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Phải từng bước thông qua đường lối, chủ trương, chính sách và công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực tiễn của hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên để từng bước hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Ba là, chăm lo xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, nhất là trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Có năng lực đề ra những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn và tổ chức lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo thực tiễn giỏi để nhanh chóng đưa nghị quyết, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt, cần kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, đạt được mục đích, yêu cầu đề ra; đẩy mạnh thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Bốn là, chủ động đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” nhằm thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, nhất là trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Xác định rõ nội dung, hình thức, biện pháp, tổ chức lực lượng và xác định rõ cơ chế kết hợp, phối hợp giữa các lực lượng trong đấu tranh phòng, chống “Diễn biến hòa bình” bảo đảm phù hợp và hiệu quả. Thường xuyên quan tâm nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; tăng cường bảo đảm về vật chất, kinh phí cho hoạt động đấu tranh phòng, chống, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Năm là, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy xây dựng để ta mạnh lên về mọi mặt là chính, nhất là giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển đất nước, giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại. Chăm lo xây dựng nhân tố con người, nâng cao khả năng “tự bảo vệ”, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Nâng cao “sức đề kháng” của mỗi người trước sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế…, là giải pháp tích cực, chủ động nhất và hiệu quả nhất để đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ở nước ta hiện nay.

Giữ vững nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Một trong những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng vừa nêu ra mới đây là: “Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”.
Các lực lượng thù địch với chủ nghĩa xã hội, đang ra sức cổ vũ cho chủ nghĩa đa nguyên chính trị, chúng cho rằng đó là tiêu chuẩn quan trọng nhất của một nền dân chủ. Tuy nhiên chế độ đa nguyên chính trị trong xã hội tư bản, thực chất là sự chuyên chế trá hình của một nhóm nhỏ những nhà tư bản tài chính, những ông vua hiện đại với quyền lực tuyệt đối, nó vẫn là một chế độ dân chủ chật hẹp bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có.
Một số ít người do thiếu hiểu biết đã ít nhiều tin vào những luận điệu chống phá của các lực lượng thù địch mà lầm tưởng cứ nhiều đảng cạnh tranh thì sẽ dân chủ hơn. Nhìn sang một số nước tư bản hiện nay, đặc biệt là Mỹ, bên cạnh xã hội được coi là “miền đất hứa” với những ánh mỹ kim hào nhoáng, vẫn còn tồn tại một “xã hội” khác hoàn toàn với đầy rẫy những bất công, bạo lực, đói nghèo, thất nghiệp, mất dân chủ,…Tại Mĩ, trong suốt hơn 200 năm qua, kể từ khi nước Mĩ ra đời (1776) 112 đảng,  chỉ có hai đảng: Đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, hai đảng lớn nhất của giai cấp tư sản thay nhau cầm quyền, đều nhận sự tài trợ của các tập đoàn kinh tế, đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản. Tuy là hai đảng nhưng không ai có thể tìm thấy sự khác nhau về bản chất, về lập trường giai cấp và hệ tư tưởng giữa chúng và nếu có khác chăng thì chỉ ở tên gọi và hình thức mà thôi. Trong lúc đó, Đảng Cộng sản Mĩ, với lịch sử hơn một trăm năm, người đại diện và đấu tranh không mệt mỏi vì quyền lợi của hàng triệu công nhân Mĩ và những lý tưởng cao đẹp, thì có những thời kỳ bị loại ra ngoài vòng pháp luật, các đảng viên của Đảng luôn bị đe dọa, bị ám sát và bị khủng bố. Cho đến hiện nay, Đảng Cộng sản Mĩ cũng vẫn đang loay hoay tìm cho mình một chỗ đứng trong nền đa đảng mà người Mĩ vẫn cho là dân chủ đó.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có thể tồn tại và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một sự lãnh đạo ổn định, thường xuyên, không chia sẻ, không có sự lãnh đạo đó sẽ không có nền dân chủ thực sự. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “dân chủ như của quý trong nhà, chuyên chính như cái khóa”. Dân chủ phải gắn với tập trung bởi dân chủ là của một giai cấp nên dân chủ phải gắn với tập trung, với hiến pháp, pháp luật XHCN. Dân chủ đồng thời cũng phải gắn liền với kỉ cương, pháp luật, gắn với công bằng xã hội. Muốn được như vậy phải thông qua sự quản lý của nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Cần phải nói thêm là thực tế không phải lịch sử Việt Nam chưa từng có chế độ đa nguyên, đa đảng song chính lịch sử đã sớm phủ định chế độ đó. Nhìn lại lịch sử dân tộc, đã có thời điểm đa nguyên, đa đảng xuất hiện tại Việt Nam. Năm 1946, trước yêu cầu cách mạng đặt lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc lên trên hết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố tự giải tán và mở rộng Chính phủ dân tộc do Hồ Chủ tịch đứng đầu với sự tham gia của nhiều đảng phái đối lập như Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân đảng); Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội),… Nhưng cùng với dòng chảy của cách mạng, những tổ chức, đảng phái đó kẻ phản động “bán nước cầu vinh”, người xem nhẹ lợi ích quốc gia, dân tộc nên đã bị chính lịch sử và nhân dân ta loại bỏ. Khi quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam, hai đảng này cũng cuốn gói chạy theo, trên vũ đài chính trị nước ta duy nhất chỉ còn lại Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối cách mạng khoa học, đúng đắn đã đại diện quyền lợi của nhân dân lao động, lợi ích quốc gia, dân tộc. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, một lần nữa lịch sử và nhân dân lại lựa chọn Đảng ta là lực lượng chính trị có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Được sự “hà hơi, tiếp sức” của đế quốc Mỹ, nhiều đảng phái đã được bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm thành lập ở miền Nam Việt Nam. Song do mục đích chính trị của những đảng phái này là phá hoại tổng tuyển cử tự do, thống nhất nước nhà, đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động nên nhân dân ta đã đoàn kết đấu tranh loại bỏ những đảng phái chính trị đó. Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được củng cố và phát triển toàn diện một lần nữa đã khẳng định tính tất yếu khách quan Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta khẳng định: Đánh giá nền dân chủ không phải một Đảng hay nhiều Đảng mà phải xem nền dân chủ đó thực sự như thế nào; Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là điều kiện để các tổ chức phản động trỗi dậy chóng phá cách mạng./.

Đòi "đa nguyên, đa đảng" – một chiêu bài lỗi thời

Vừa qua, trên các trang mạng xã hội xuất hiện loạt bài viết mượn danh nghĩa “kiến nghị” để đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam. Đây là vấn đề không mới, chỉ lừa gạt được một số ít người thiếu hiểu biết.
Nhớ lại những năm 90 của thế kỷ XX, khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, trào lưu đòi “đa nguyên, đa đảng” của các “nhà dân chủ” nhằm lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi theo quỹ đạo của vòng xoáy khủng hoảng rộ lên quyết liệt. Họ tung tin: “Chừng nào ở Việt Nam chỉ có độc đảng lãnh đạo thì chừng đó không thể nói tới một nền dân chủ thực sự”; và rằng, “muốn có dân chủ thực sự thì Việt Nam phải hội nhập vào xu thế đa đảng như phương Tây”(?). Họ ra sức tuyên truyền, phụ họa cho những điều phi lý, hòng “đổi trắng thay đen” và “đánh tráo lịch sử”, với mưu đồ phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đối với Nhà nước và xã hội. Trong thành phần của “dàn hợp xướng” đó, có cả một số người từng được học hành tử tế trong chế độ XHCN, có điều kiện phát huy tài năng trên các lĩnh vực hoạt động và có cả những người từng vào sinh ra tử vì lý tưởng Cộng sản, từng đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị… Đáng tiếc là, trước những khó khăn của cách mạng và sự tuyên truyền, kích động của các thế lực thù địch, họ đã “trở cờ”, thậm chí còn làm “người lính xung kích” phục vụ cho những mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, đi ngược lại lợi ích chính đáng của dân tộc. Để đạt mục đích đề ra, các “nhà dân chủ” đã không từ một thủ đoạn nào để chống phá nền tảng tư tưởng, chính trị của đất nước; trong đó, viết bài, tán phát tài liệu với nội dung tô hồng nền dân chủ, lối sống phương Tây; đả kích chế độ hiện hành, phủ nhận những thành tựu của đất nước dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN; kích động mâu thuẫn nội bộ, cho rằng trong Đảng, trong Quốc hội có bè nọ, phái kia,… là những thủ đoạn quen thuộc.
Gần đây, trên các trang mạng xã hội lại rộ lên những bài viết về đề tài này. Lời lẽ của những bài viết đó chẳng có gì mới; vẫn lặp lại những ngôn từ cũ rích, như: “độc đảng là mất dân chủ”, “ĐCSVN tiếm quyền lãnh đạo” hoặc chỉ có thực hiện chế độ “đa nguyên, đa đảng” thì “xã hội Việt Nam mới nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo”… Có tác giả còn lớn tiếng kêu gọi những đảng viên cộng sản hãy ra khỏi Đảng để thành lập một đảng mới, làm đối trọng với ĐCSVN.Họ cho rằng, có như vậy thì trong xã hội mới có dân chủ. Với vỏ bọc “vì dân, vì nước”, “đấu tranh cho nền dân chủ ở Việt Nam”, những tuyên bố của họ đã làm cho một số ít người thiếu hiểu biết lầm tưởng rằng: xã hội cứ có nhiều đảng thì sẽ có dân chủ hơn, có động lực để phát triển nhanh hơn.
Thực tế luôn khẳng định, chế độ một đảng hay nhiều đảng hoàn toàn chưa nói lên trình độ dân chủ ở từng nước; mà dân chủ phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền ở nước đó. Trên thế giới hiện nay, có những nước tồn tại nhiều đảng mà quyền tự do, dân chủ của nhân dân vẫn không được bảo đảm; ngược lại, có những nước chỉ một đảng cầm quyền, nhưng đảng đó biết đặt lợi ích của mình gắn bó với lợi ích của đa số nhân dân lao động thì quyền tự do, dân chủ vẫn được phát huy. Nước Mỹ hiện có 112 đảng, nhưng thực chất chỉ có Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ thay nhau cầm quyền. Tuy bề ngoài là chế độ đa đảng đối lập, nhưng xét về bản chất thì đảng nào cầm quyền cũng là đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư sản -  giai cấp chiếm số ít trong xã hội, nhưng lại nắm phần lớn tài sản của đất nước. Chính phong trào “Chiếm phố Uôn” ở nước Mỹ năm 2011 đã vạch trần thực chất nền dân chủ của Mỹ là nền dân chủ phục vụ cho 1%, của 1%, vì 1% dân Mỹ; đó là các nhà tư bản tài phiệt.
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của ĐCSVN được Hiến pháp (1980 và 1992) khẳng định là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.Trong các kỳ đại hội, Đảng luôn nhất quán về vấn đề này.Điều này hoàn toàn không xuất phát từ ý muốn chủ quan của Đảng như các thế lực thù địch vẫn xuyên tạc, mà có cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn.Cần nói thêm rằng, không phải Việt Nam chưa từng có chế độ đa đảng, mà chính lịch sử đã sớm phủ nhận chế độ đó. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, xã hội Việt Nam đã có giai đoạn tồn tại nhiều đảng phái, với những xu hướng chính trị khác nhau. Năm 1946, trước yêu cầu của cách mạng, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, ĐCSVN đã tuyên bố tự giải tán để thành lập Chính phủ đoàn kết dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu với sự tham gia của nhiều đảng phái đối lập, như: Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách)…, với mục tiêu chung là chống thực dân Pháp xâm lược, xây dựng hòa bình, độc lập và thống nhất đất nước. Nhưng khi quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam, thì hai đảng đó cũng cuốn gói chạy theo, chỉ còn ĐCSVN là trung thành với lý tưởng của mình, lãnh đạo nhân dân phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đánh đuổi thực dân Pháp, sau đó là đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, đưa cả nước đi vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và CNXH. Cũng có thời kỳ, ngoài ĐCSVN, tồn tại Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam; nhưng, cả hai đảng đều công nhận sự lãnh đạo của ĐCSVN và khi nhận thấy không còn vai trò lịch sử thì đã tuyên bố tự giải tán. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của ĐCSVN. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng cho thấy, sự tồn tại một đảng hay nhiều đảng là do yêu cầu khách quan của lịch sử và sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân. Vai trò độc tôn lãnh đạo của ĐCSVN là sự lựa chọn khách quan của lịch sử đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, không như luận điệu của các “nhà dân chủ” cho rằng ĐCSVN “tiếm quyền”. Vì thế, mọi mưu đồ đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam đều không thể chấp nhận được!
Cũng phải thấy rằng, trong quá trình lãnh đạo, ĐCSVN không tránh khỏi những khuyết điểm, sai lầm, thậm chí đã có lúc phạm sai lầm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Song, Đảng đã nghiêm túc tự chỉnh đốn, tự đổi mới thông qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, nhằm tiếp tục lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Mới đây, trên cơ sở nhận thức được những nguy cơ có thể đe dọa đến sự tồn vong của chế độ, Đảng đã ra Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” để kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, khuyết điểm. Đây được coi là nghị quyết của “ý Đảng, lòng dân” nhằm xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Chúng ta không phủ nhận trong xã hội vẫn còn những biểu hiện thiếu dân chủ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhưng đó chỉ là những hiện tượng riêng lẻ, là những thiếu sót, hạn chế cụ thể trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN. Không thể xem đó là bản chất của Đảng; cũng không thể coi đó là bản chất của nền dân chủ mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang gắng sức xây dựng; càng không thể dựa vào những hiện tượng đó để tạo cớ đòi “đa nguyên, đa đảng”.Phía sau chiêu bài kích động đòi “đa nguyên, đa đảng”, không có mục đích gì khác ngoài mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội. 

Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thu được nhiều thành tựu to lớn, làm thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Đời sống của nhân dân từng bước được nâng cao; dân chủ xã hội ngày càng được bảo đảm… Điều đó một lần nữa khẳng định vai trò lãnh đạo của ĐCSVN trong công cuộc giải phóng dân tộc trước kia, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Thực tiễn đó cũng là minh chứng hùng hồn bác bỏ ý kiến của những người lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” để chống Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, đi ngược lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động. Vấn đề đặt ra hiện nay đối với đất nước không phải là sự lựa chọn một đảng hay nhiều đảng mà phải thực hiện tốt hơn nữa sứ mệnh lãnh đạo của ĐCSVN trong tiến trình phát triển. Mọi mưu toan kích động, đòi “đa nguyên, đa đảng” chỉ là một chiêu bài đã lỗi thời./.

Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - giải pháp quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là vấn đề sống còn của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Tại các Đại hội VIII, IX, X và XI, Đảng ta đã nhấn mạnh sự cần thiết phải ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục cảnh báo và đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng là: Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả sáu nhiệm vụ trọng tâm, trong đó tập trung vào nhiệm vụ: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm... trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp không những chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, mà có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp.Thực tiễn cho thấy, những biểu hiện khác nhau về suy thoái phẩm chất, lối sống; tham ô, tham nhũng; cửa quyền; lợi ích nhóm... có nguyên nhân sâu xa từ sự suy thoái về đạo đức. Khi một cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, nếu suy thoái về đạo đức thì sẽ rất khó toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Khi mà cán bộ không có đạo đức thì rất khó có thể vượt qua được những cám dỗ của vật chất; khó có thể hy sinh lợi ích của cá nhân mình vì lợi ích chung của tập thể, của nhân dân.
Chính vì vậy, việc đấu tranh, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ Đảng có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết. Để thực hiện tốt vấn đề này cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau trong đó đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là giải pháp quan trọng.
Tiếp tục thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sẽ tạo ra động lực to lớn từ sức mạnh của dư luận đạo đức xã hội đến điều chỉnh suy nghĩ và hành vi đạo đức đội ngũ cán bộ, đảng viên có hiệu quả cao hơn. Mỗi cán bộ, đảng viên chỉ là một cá nhân trong xã hội và chịu chế ước của các quy định, chuẩn mực xã hội nói chung cũng như của đạo đức nói riêng. Sức mạnh từ dư luận đạo đức xã hội tác động mạnh mẽ đến chuyển biến thái độ, hành vi đạo đức cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sẽ tạo ra sự chuyển biến đạo đức của cả xã hội bởi phạm vi, quy mô mang tính toàn xã hội của công tác này.

Quá trình thực hiện cần coi đây là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; gắn với thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá XI) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Triển khai có hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Tích cực đấu tranh phòng chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá" trong nội bộ. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, cá nhân ích kỷ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc trong một bộ phận cán bộ, đảng viên….Theo đó, cùng với việc tiếp tục kiên quyết, kiên trì triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, từng cán bộ, đảng viên phải chủ động, tự giác thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đây không phải chỉ là vấn đề lý luận, mà chính là những vấn đề thực tiễn đang đặt ra và đòi hỏi hết sức cấp thiết trong công tác xây dựng Đảng hiện nay./.

Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"

Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tiếp tục khẳng định xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là nhiệm vụ then chốt đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, với chế độ ta.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí”,... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Trong những căn bệnh của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống là căn bệnh nguy hiểm hàng đầu, là căn nguyên gây ra nhiều căn bệnh khác.
Tại hội nghị lần này, Trung ương tập trung trí tuệ, sức lực, phát huy cao nhất trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, xác định rõ trách nhiệm của tập thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và mỗi đồng chí Ủy viên Trung ương trong thảo luận, quyết nghị từng nội dung, vấn đề theo chương trình, kế hoạch đề ra.
Để thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII một cách có hiệu quả, trước hết, cấp ủy từng cấp, trực tiếp là bí thư cấp ủy cần nắm vững những nội dung trọng tâm, cốt yếu được Trung ương thảo luận và quyết nghị tại hội nghị lần này, nhất là những điểm mới về biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống đã được Trung ương chỉ ra. Đó vừa là cơ sở, vừa là điều kiện để cấp ủy các cấp tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế ở từng địa phương, đơn vị. Trên cơ sở nhận thức đúng, nắm vững nội dung và hệ thống giải pháp cơ bản của Hội nghị Trung ương để cấp ủy các cấp nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp và thiết thực.
Trước hết, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Hai là, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng đối với mọi cán bộ, đảng viên, nhất là với những cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Bốn là, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng.
Nắm vững chủ trương của Đảng, thấy rõ vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; đồng thời đặt trong mối quan hệ biện chứng để từng cán bộ, đảng viên; từng cấp ủy, tổ chức Đảng chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện. Đây không phải chỉ là vấn đề lý luận, mà chính là những vấn đề thực tiễn đang đặt ra và đòi hỏi hết sức cấp thiết trong công tác xây dựng Đảng hiện nay./.

Lại một sự xuyên tạc trắng trợ về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam

Trong thời gần đây, nhiều phần tử cơ hội, phản động trong và ngoài nước tiếp tục có những hành động xuyên tạc về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Đáng chú ý là: vào ngày 08/12/2016, đối tượng Trần Gia Phụng (trú tại Canada) tán phát tài liệu, nội dung tuyên truyền, vu khống các cơ quan chức năng của Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo”; xuyên tạc Đảng và Nhà nước ta “dùng bạo lực để đàn áp giáo dân”; đồng thời kêu gọi các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài hỗ trợ cho các phong trào đấu tranh ở Việt Nam”.
Hành vi và luận điệu mà Trần Gia Phụng đưa ra là một sự xuyên tạc trắng trợ, không có căn cứ về quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Hiện nay, ở Việt Nam, không một tôn giáo nào đang hoạt động đúng pháp luật mà bị cấm đoán. Việc người dân theo hay không theo tín ngưỡng, tôn giáo nào là trên cơ sở tự nguyện. Tuyệt nhiên, không có chuyện các cơ quan chức năng ở Việt Nam “dùng bạo lực để ép buộc giáo dân”. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và tạo thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp. Các tín đồ tôn giáo là một phần không thể thiếu trong cộng đồng người Việt Nam, được hưởng mọi quyền lợi của một công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật. Vì vậy, các tổ chức tôn giáo và tín đồ tôn giáo không ngừng tăng lên. Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay, Nhà nước ta đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 39 tổ chức tôn giáo, một pháp môn tu hành, với trên 24 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số. Cả nước có gần 53 nghìn chức sắc, 133,7 nghìn chức việc, 28 ngàn cơ sở thờ tự. Trên thực tế, ai chũng nhận thấy, các lễ: Nôen, Phật đản cũng như những lễ trọng khác của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian từ lâu đã trở thành ngày hội chung của toàn dân, lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng ấy được chính quyền các địa phương tạo điều kiện đáp ứng. Việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ nơi thờ tự diễn ra khắp nơi. Nhiều chính quyền địa phương còn cấp đất cho giáo hội làm nơi thờ tự, sinh hoạt tôn giáo.

Tuy nhiên, công tác tôn giáo ở nước ta do nhiều nguyên nhân cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức. Trong đó, có khó khăn do cả khách quan và chủ quan; có những khó khăn về điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống; có những khó khăn do cơ chế, chính sách, pháp luật và khâu thực hiện; nhưng cũng có khó khăn do sự khác biệt về nhận thức, do chưa thấu hiểu nhau giữa các cơ quan chức năng và các tổ chức tôn giáo; có khó khăn do sự xúi giục, kích động từ các thế lực thù địch. Những luận điệu mà Trần Gia Phụng đưa ra tuy không mới, nhưng nó dễ đánh lừa những người nhẹ dạ, cả tin. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải nêu cao cảnh giác để không bị mắc phải những “chiêu trò” mà các phần tử cơ hội, phản động đang thực hiện nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta./.

Nhận diện “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và giải pháp phòng, chống hiện nay

Thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm của các thế lực thù địch nhằm phá hoại nội bộ cơ quan Đảng, Nhà nước ta. Điều đáng quan ngại là nó diễn ra ngấm ngầm rất khó nhân diện. Vì thế, cần phải cảnh giác, có biện pháp phòng, chống hiệu quả.
 “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là nói tới sự suy thoái, thay đổi quan điểm, lập trường tư tưởng chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên từ thái cực này sang thái cực khác mà hậu quả nó gây ra hết sức nguy hiểm, phá hoại sự đoàn kết, thống nhất, nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, làm mục ruỗng Đảng từ bên trong, dẫn đến chuyển hóa chế độ.
Biểu hiện trước hết của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Tiếp đến là chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, thu thập tin tức nội bộ, công khai luận điệu chống đối, phản động và những tiêu cực trong đời sống xã hội; đồng thời, câu kết, tiếp tay cho các phần tử thù địch từ bên ngoài để chống phá cách mạng Việt Nam. Ở mức cao hơn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bộc lộ rõ tư tưởng phản động, chống đối, thách thức với pháp luật và hệ thống chính trị; xây dựng và phát tán những “thư ngỏ”, “tâm thư”, “kiến nghị”; tập hợp, thành lập những “hội”, “đoàn” độc lập, tổ chức chính trị đối lập với Đảng và hệ thống chính trị trong xã hội Việt Nam, v.v. Tất cả những biểu hiện đó, là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch lợi dụng, khoét sâu, kích động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nguy hại hơn là trong số những người có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có cả một số vị là lão thành cách mạng, cán bộ cấp cao, trí thức có tên tuổi, ít nhiều có cống hiến cho đất nước, cho nên những nhận thức và hành động của họ dễ lây lan, phát tán là điều dễ hiểu.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường xuất hiện khi cách mạng có những “bước ngoặt”, tình hình thế giới, trong nước diễn biến phức tạp, nhiều khó khăn, thách thức; tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phân hóa giàu nghèo, … dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội; sự kích động, chia rẽ, lôi kéo, mua chuộc, “hà hơi tiếp sức” của các thế lực thù địch, v.v. Song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng; thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, tranh giành, kèn cựa địa vị, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật, v.v.
          Tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng nguy hiểm hơn trong điều kiện các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng nước ta. Giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ, tác động lẫn nhau và là hệ quả của nhau. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là “đồng minh” tự nhiên của “diễn biến hòa bình”, làm cho nó càng nguy hiểm hơn; đến lượt nó - “diễn biến hòa bình” lại tác động trở lại thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trầm trọng hơn, ảnh hưởng trực tiếp tới sự mất còn của Đảng, Nhà nước và chế độ. Nó có thể diễn ra trong nội bộ Đảng, chính quyền Nhà nước và trong xã hội; nảy sinh từ những cán bộ, đảng viên, quần chúng đến những người có chức, có quyền trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước ở các cấp.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã cảnh báo về sự hiện hữu của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang diễn biến hết sức phức tạp và nguy hiểm, nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ.
Từ vấn đề trên Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư (khóa XII) đã ra Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Điều đó khẳng định tiếp tục kiên trì, kiên quyết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; đồng thời, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng đối với thứ “giặc nội xâm” này. Để đấu tranh, phòng, chống hiệu quả cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Trước hết, cần làm tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân mức độ nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đề cao trách nhiệm trong đấu tranh với những biểu hiện nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn mơ hồ, chưa nhận thức đúng về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cho họ thấy rõ mức độ nguy hiểm của nó đối với sự tồn vong của Đảng, chế độ.
Hai là, phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng trong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gắn thực hiện nghị quyết Trung ương 4 với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Quy định về những điều đảng viên không được làm, tạo sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu. Thông qua việc làm này, cơ thể Đảng như được gột sạch những vết nhơ; cán bộ, đảng viên nhận rõ ưu, khuyết điểm của mình để phấn đấu và rèn luyện; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ được nhận diện và khắc phục. Bởi thế, cần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong hoạt động và sinh hoạt Đảng với tinh thần xây dựng, trung thực, chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cùng với đó, cần đề cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đổi mới phong cách làm việc, sâu sát cơ sở. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường “sức đề kháng” nhằm vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động phá hoại tư tưởng, thâm nhập, chuyển hóa, lũng đoạn nội bộ, tha hóa cán bộ Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch. Vận dụng linh hoạt các biện pháp xử lý đối với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; “xây” đi liền với “chống”, nói đi đôi với làm, tạo môi trường thuận lợi phòng, chống có hiểu quả biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Bốn là, Đẩy mạnh trọng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân rộng điển hình tiên tiến, nêu gương “người tốt, việc tốt”; đồng thời, có những bài viết sắc sảo, ý thức chính trị cao nhằm phê phán, lên án những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội và những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đi đôi với khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích; cần xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm quy định về thông tin, báo chí, tuyên truyền và lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái.

Như vậy qua đây ta thấy, nhận diện đúng, đấu tranh, khắc phục kịp thời những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là biện pháp hết sức quan trọng để khắc phục những hiểm họa khôn lường mà nó gây ra đối với Đảng và chế độ ta. Làm được điều đó, sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ và làm thất bại những mưu đồ lợi dụng vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch./.

Sự phủ nhận từ quá khứ tới hiện tại và tương lai với luận điệu “Đa nguyên nguyên chính trị, đa đảng đối lập để mở rộng dân chủ cho Việt Nam”

Xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản luôn là mục tiêu hàng đầu trong âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch đối với nước ta. Để thực hiện được ý đồ ấy, hàng ngày trên các đài phát thanh của chúng từ RFA, BBC đến VOA.., trên các page từ Dân làm báo, Quan làm Báo, Nhật ký yêu nước đến “lều báo” Việt tân đều ra rả luận điệu đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập núp dưới một vỏ bọc “cao cả” là để mở rộng dân chủ. Chúng coi đa nguyên chính trị đa đảng đối lập là “ khuôn vàng thước ngọc” của dân chủ, từ bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng cộng sản là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của nền dân chủ. Vậy có hay không, Việt Nam cần đa nguyên chính trị, đa đảng mới mở rộng được tự do dân chủ?. Là một thanh niên với cái nhìn còn nhiều hạn chế nhưng với câu hỏi này tôi có thể tự tin trả lời rằng KHÔNG. Bởi đơn giản theo tôi đối với Việt Nam luận điệu “nhơ bẩn” ấy đã bị phủ nhận ở mọi thời điểm, từ quá khứ tới hiện tại và thậm chí cả ở tương lai.
Trước hết, hãy nhìn về nhìn về quá khứ của dân tộc để thấy một sự thật rằng lịch sử cách mạng Việt Nam đã có và cũng đã từng phủ định đa đảng.
Học lịch sử phổ thông chúng ta có thể thấy rõ ràng, Trước năm 1930, nước ta có rất nhiều đảng chính trị theo những khuynh hướng khác nhau, tất nhiên các đảng này hoạt động ngầm vì mục đích giải phóng dân tộc và đấu tranh đòi thực dân Pháp thực hiện tự do dân chủ. Xét về yếu tố dân chủ, theo cá nhân tôi các tổ chức đảng chưa tự quyết định được vấn đề này vì chính quyền đang nằm trong tay thực dân Pháp. Các đảng chính trị đấu tranh rất quyết liệt cho độc lập, tự do dân chủ nhưng đều thất bại từ đó lịch sử đã chọn lọc và khẳng định chỉ con đường xã chủ nghĩa mới là con đường cách mạng đúng đắn nhất, khoa học nhất và chỉ có Đảng Cộng sản mới đủ khả năng lãnh đạo nhân dân giành được độc lập. Mà một dân tộc muốn có dân chủ cho nhân dân trước hết phải có được độc lập và quyền tự chủ. Thực tế Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm được điều ấy.
 Ngay sau khi ra đời, với bản chất cách mạng của mình Đảng đã thu hút và tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh giành chính quyền và đòi các quyền dân chủ. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, nhân dân ta đã giành được chính quyền từ tay thực dân Pháp, Phát xít Nhật, lật đổ chế độ phong kiến thành lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa_ nhà nước độc lập của nhân dân Việt Nam. Đó là điều kiện tiên quyết để mang lại dân chủ thực sự cho nhân dân Việt Nam.
Quá khứ chỉ ra rằng Việt Nam không cần đa đảng và trở về với hiện tại, thực tế tình hình hiện nay cũng cho thấy rằng Việt Nam không cần đa đảng để có dân chủ. Trên thực tế, không có một nền dân chủ chung chung trừu tượng, trong thời đại ngày nay chỉ có thể là dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản. Bởi bất cứ nền dân chủ nào cũng nhằm đảm bảo sự thống trị của giai cấp thống trị, cầm quyền. Dân chủ không phụ thuộc vào độc đảng hay đa đảng mà phụ thuộc vào bản chất của chế độ cầm quyền phục vụ cho giai cấp nào. Mà chế độ xã hội chủ nghĩa là đại diện cho quần chúng nhân dân lao động. Từ đó suy luận ra rằng dân chủ dưới chế độ xã hộ chủ nghĩa về bản chất là nền dân chủ của đa số nó đối lập với nền dân chủ thiểu số của chủ nghĩa tư bản. Nếu những ai cố chấp cho rằng đa đảng dân chủ hơn độc đảng thì hãy nhìn sang nước Mỹ, mảnh đất mà các nhà zân chủ vẫn thường “tôn thờ” cho đó là hình mẫu của sự tự do.Thì hãy lên google tìm hiểu về nhà tù khét tiếng Guantanamo hay cách đối xử giữa người da trắng với người gda màu.Tôi tin chắc rằng đó sẽ là những gáo nước lạnh làm thức tỉnh sự cho sự mơ hồ về tự do, dân chủ kiểu Mỹ. Còn trong chế độ nhất nguyên ở Việt Nam ,quyền tự do dân chủ có bị hạn chế không. Câu trả lời là không. Quyền tự do, dân chủ của nhân dân không chỉ được quy định chặt chẽ trong hiến pháp và pháp luật mà còn được thể hiện cụ thể sinh động trong đời sống hàng ngày, trong cuộc sống hiện thực của nhân dân. Mọi công dân đều có quyền tham gia quản lý xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua người đại diện của mình. Đảng, Nhà nước luôn tạo điều kiện để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trong mọi lĩnh vực thực hiện “ Dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”. Những nỗ lực và thành tựu về đảm bảo, mở rộng dân chủ của Việt Nam được đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận. Một ví dụ cho sự so sánh giữa chế độ một đảng nước ta với chế độ đa đảng tư sản là bảng xếp hạng chỉ số hạnh phúc (HPI) năm 2014, theo đó, Việt Nam đứng đầu châu Á và đứng thứ 2 thế giới về chỉ số hạnh phúc của người dân. Trong khi đó Mỹ và nhiều nước công nghiệp khác không lọt được vào top 10. Chỉ số hạnh phúc là sự đánh giá khách quan của nhân dân nước đó về xã hội mà họ đang sống. Như vậy, rõ ràng dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta thực sự cảm thấy hạnh phúc cảm thấy được tự do. Như vậy, hiện nay đa đảng hay đơn đảng không quyết định dân chủ hay không dân chủ và thực tiễn tình hình đất nước hiện hiện nay cũng khẳng định Việt Nam không cần đa đảng. 

Như vậy từ thực quá khứ đến hiện tại và kể cả tương lai đều phủ nhận luận điệu đòi đa nguyên chính trị đa đảng đối lập để mở rộng dân chủ của các thế lực thù địch. Điều đó chứng minh hùng hồn rằng luận điệu trên là phản khoa học, phi lịch sử và mang nặng tính mị dân. Là một người dân yêu nước và có trách nhiệm cần phải nhìn nhận sâu sắc về vấn đề này và khẳng định chắc chắn rằng: Việt Nam không cần đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm cho sự ổn định, phát triển và tiến tới một xã hội dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh của đất nước. Chế độ dân chủ ở nước ta là chế độ dân chủ ưu việt. Bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nó không phải tự nhiên mà có mà là kết quả của biết bao mồ hôi công sức và cả xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam. Bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ chân chính xã hội chủ nghĩa có được gìn giữ, nâng cao và phát huy hay không phụ thuộc vào chính nhận thức và hành động của chúng ta, mà trước hết là phản bác lại luận điệu xảo trá đòi đa nguyên chính trị đa đảng đối lập để mở rộng dân chủ.

Nhận diện âm mưu lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”

Nhiều năm nay đối với Việt Nam, các thế lực thù địch liên tục triển khai các hoạt động truyền bá, gieo rắc thông tin sai trái, xuyên tạc vấn đề dân chủ, nhân quyền. Họ khai thác trên biên độ rất rộng từ tự do tôn giáo, tự do ngôn luận đến các chính sách của Nhà nước, thực thi pháp luật... Để thực hiện mưu đồ, họ lập nhiều tổ chức nhân danh dân chủ, nhân quyền, có “tổ chức” chỉ gồm vài ba người, hoặc một người ghi tên ở mấy nơi khác nhau. 
          Với sự phối hợp chặt chẽ trong - ngoài, những việc làm này được tiến hành thường xuyên, sử dụng nhiều website, blog, facebook đăng tải tin tức, bình luận bịa đặt, luôn được sự phụ họa, hỗ trợ của RFA, BBC, VOA, RFI... mấy kẻ nhân danh dân chủ, nhân quyền triệt để khai thác một số hiện tượng tiêu cực để xuyên tạc thành bản chất xã hội, tiến hành thủ đoạn tuyên truyền với hình thức ngày càng tinh vi, xảo quyệt, phát tán tin tức bịa đặt với tần số cao, biên độ rộng... Họ kêu gào phải sao chép mô hình dân chủ phương Tây, gieo rắc các quan niệm mơ hồ, lệch lạc như: “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “nhân quyền không biên giới”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia”...
          Một trong những thủ đoạn mà các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng nhằm vu cáo, bịa đặt về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam là cắt xén một số văn bản chính thức của Nhà nước Việt Nam và Liên hợp quốc (LHQ), rồi dựa vào đó xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm các cam kết về dân chủ, nhân quyền... Thí dụ:
          - Họ cho rằng Hiến pháp Việt Nam cho phép tự do lập hội, tự do biểu tình, tự do ngôn luận và lấy đó làm cơ sở để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Về việc này, Điều 25 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (2013) khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”, tức là những quyền đó phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật.
          - Họ cố tình biến Tuyên ngôn thành “luật pháp quốc tế”, trong khi văn bản này mang tính khuyến nghị, khuyến khích các quốc gia phấn đấu đạt tới, và là cam kết chính trị - đạo đức hơn là ràng buộc về chính trị - pháp lý. Như Điều 29 Tuyên ngôn yêu cầu: “1. Mọi người đều có các nghĩa vụ đối với cộng đồng mà ở đó có thể thực hiện được sự phát triển tự do và đầy đủ nhân cách của bản thân. 2. Trong khi thực hiện các quyền và quyền tự do cho cá nhân, mọi người chỉ phải tuân thủ các hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận, tôn trọng các quyền và quyền tự do của người khác, đáp ứng các đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Như vậy theo LHQ, việc thực thi quyền của cá nhân luôn phải đặt trong tương quan với luật pháp, cộng đồng, quyền của người khác và thực hiện các nghĩa vụ đối với cộng đồng,...
          - Họ coi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (Công ước) là cơ sở thực hành tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do lập hội không giới hạn! Trong khi đó, về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, khoản 3 Điều 18 Công ước khẳng định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản của người khác”; về tự do ngôn luận, khoản 3 Điều 19 viết: “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 của Điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần thiết để: a. Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b. Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”; về tự do lập hội, khoản 2 Điều 22 Công ước khẳng định: “Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định và những hạn chế này là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe của công chúng hoặc nhân cách, hoặc các quyền và tự do của người khác...”. Nghĩa là theo Công ước, để bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tôn trọng quyền của người khác, bảo đảm về đạo đức,... việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do lập hội phải được đặt trong khuôn khổ luật pháp.

          Là dân tộc phải đem xương máu để giành độc lập và xóa bỏ sự bóc lột, hơn ai hết, mọi người Việt Nam đều hiểu rằng, dân chủ, nhân quyền là các giá trị thiêng liêng, cao cả và xã hội mới phải tiếp tục bảo vệ, phát triển dân chủ, nhân quyền. Vì thế, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm tới vấn đề này, thể hiện trong các quan niệm, chủ trương, chính sách, qua hành động thiết thực làm cho dân chủ, nhân quyền trở thành các giá trị chung, nhân dân thật sự làm chủ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng hoàn thiện các quan điểm về dân chủ, nhân quyền, coi nỗ lực thể chế hóa, luật hóa quan điểm dân chủ, nhân quyền là yêu cầu bức thiết của phát triển. Năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, khẳng định “phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng”; sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định 29/1998/NĐ-CP (đến năm 2003 thay thế bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã quy định về nội dung, phương thức, trách nhiệm của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân; năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… Đây là các bước đi thống nhất, đồng bộ về chủ trương kết hợp hành động cụ thể tạo điều kiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Về nhân quyền, Chỉ thị 12-CT/TW Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta của Ban Bí thư (khóa VII) khẳng định “Quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Đó là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới chống lại mọi áp bức, bóc lột” và “giải phóng con người (trong đó có việc đảm bảo các quyền con người) gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội; chỉ có dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được đảm bảo rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng luôn nhấn mạnh phải quan tâm hơn nữa đến việc chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết. Và kết quả của sự phát triển nhận thức, tư duy về dân chủ, nhân quyền thể hiện cụ thể tại Chương II nhan đề Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân Hiến pháp năm 2013, được khẳng định tại Điều 14: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Do đó, cần khẳng định dứt khoát rằng, bản chất nhân văn của sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn là không thể phủ nhận. Bản chất ấy thể hiện qua đường lối, chủ trương, chính sách bảo đảm dân chủ trong xã hội, bảo đảm quyền của con người, chú trọng tuyên truyền ý nghĩa và chuẩn mực về dân chủ, nhân quyền giúp mọi người nắm bắt các quyền của mình, qua đó xác định mục đích phấn đấu, cống hiến và hưởng các quyền lợi xã hội. Đó là cơ sở để hơn nửa thế kỷ qua, nhất là sau 30 năm của sự nghiệp đổi mới, đất nước đã đạt được các thành tựu cụ thể về dân chủ, nhân quyền mà dư luận thế giới đã ca ngợi và ghi nhận.

Nhìn lại chế độ "Việt Nam Cộng hòa" - chế độ thối nát

Có lẽ, do chưa thấu hiểu hết lịch sử Việt Nam hoặc do bị các thế lực hắc ám nào đó lừa phỉnh nên hiện nay một số người, nhất là những người ở hải ngoại, vẫn coi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta như một cuộc nội chiến. Theo họ, cái chính thể mang tên “Việt Nam Cộng hòa” là hoàn toàn hợp pháp và sự sụp đổ của chế độ đó là do sự “cưỡng chiếm” từ miền Bắc. Trước các luận điệu hoặc ngộ nhận này, chúng ta cần nhìn lại lịch sử và làm một cuộc “giải phẫu” chế độ Việt Nam Cộng hòa cùng hai công cụ bạo lực của nó là Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa để thấy rõ bản chất của nó và những sự thật mười mươi:
Có thể nói, ngay từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một “sáng tạo” thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu lợi ích riêng của họ.
Trong khi đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập một cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua - hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam. Không những vậy, sau năm 1954 nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó.
Theo Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam chỉ tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, giới tuyến quân sự chỉ là tạm thời và không phải là biên giới quốc gia. Theo Hiệp định này, hai bên sẽ tiến hành hiệp thương để thống nhất đất nước trong năm 1956. Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm - do Mỹ đưa về Việt Nam làm Thủ tướng của chính phủ bù nhìn Bảo Đại - đã tuyên bố không có tổng tuyển cử gì hết, trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ, và đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc. Thời đó, người Mỹ và phe cánh của Diệm lo sợ uy tín to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Đảng Lao động Việt Nam và tin rằng nếu tiến hành bầu cử tự do, Hồ Chí Minh sẽ giành được tới 80% số phiếu.
Do vậy, Diệm với sự giúp đỡ của người Mỹ đã phải sử dụng nhiều “mưu hèn kế bẩn” để củng cố quyền lực của mình (với tư cách là Thủ tướng), rồi gian lận trong cuộc “trưng cầu dân ý” để hạ bệ luôn Quốc trưởng Bảo Đại, dựng lên “Việt Nam Cộng hòa” với Diệm làm Quốc trưởng và sau đó là Tổng thống. Tiếp đó, Diệm áp dụng nhiều chiêu thức man rợ để tàn sát những người kháng chiến cũ và những người yêu nước chân chính, khủng bố tinh thần của nhân dân, củng cố chính quyền phản động của mình, công khai phá hoại Hiệp định Giơnevơ, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước. Sau khi đã củng cố vững chắc chính quyền, Ngô Đình Diệm đã tước đoạt đất đai của nông dân và khôi phục lại giai cấp địa chủ. Cho nên, sau này dù có mị dân đến mấy, chính quyền này cũng không giành được sự ủng hộ ở nông thôn.
Về bản chất chính trị, “Việt Nam Cộng hòa” đại diện cho các tầng lớp tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ. Nền tảng trực tiếp cho sự ra đời của Việt Nam Cộng hòa là chính thể “Quốc gia Việt Nam” (1949-1955) - đây là một chế độ bù nhìn do Pháp lập nên trong thời kỳ kháng Pháp và do Bảo Đại làm quốc trưởng. Quốc kỳ “ba que” của Việt Nam Cộng hòa cũng chính là quốc kỳ của “Quốc gia Việt Nam” được Pháp “trao trả độc lập”.
Như vậy, ngay từ đầu, chính thể này đã phạm nhiều tội ác và mang “gene” Việt gian rất rõ nét. Bước chuyển từ “Quốc gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng hòa” là bước chuyển từ làm tay sai cho thực dân Pháp sang làm tay sai cho đế quốc Mỹ mà thôi. Theo thời gian, chính thể Việt Nam Cộng hòa ngày càng thối nát với tệ nạn tham nhũng, các cuộc đấu đá nội bộ và các cuộc đảo chính quân sự. Chế độ này không đại diện cho dân tộc và trên thực tế đã bị nhân dân và lịch sử quay lưng lại.
Còn tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rất cao, nên Mỹ không thể lấy cớ để lôi kéo quân của Liên Hợp Quốc vào lãnh thổ Việt Nam tham chiến như đã từng xảy ra trên bán đảo Triều Tiên được.
Mặt khác quan trọng nữa là, chính thể Việt Nam Cộng hòa là phi pháp nên các công cụ bạo lực của nó cũng chỉ là lực lượng phản dân hại nước, đang tâm làm tay sai cho các thế lực ngoại bang.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa thường khoe là chiến đấu cho tự do. Tuy nhiên quân đội này lại xuất phát từ chính lực lượng ngụy quân đã sát cánh bên quân đội viễn chinh Pháp dưới lá cờ tam tài! Đa phần các tướng lĩnh cao cấp của quân đội Sài Gòn đều đã từng phục vụ trong quân đội Pháp hoặc quân đội “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại để bảo vệ nền thống trị của người Pháp ở Đông Dương.
Cái gọi là “Cảnh sát Quốc gia” của chế độ ngụy cũng không hơn. Nó bắt nguồn từ lực lượng cảnh sát và mật thám của Pháp tại Đông Dương từ năm 1946.
Đến khi đổi chủ, hai lực lượng này lại hết lòng với các quan thầy Mỹ. Dù người ta có ngụy biện đến thế nào cũng không thể phủ nhận bản chất tay sai của quân đội và cảnh sát ngụy. Cả quân lực và cảnh lực ngụy đã tham gia vào những chiến dịch “diệt cộng” rất dã man, trên tinh thần “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Thời Diệm, với luật 10/59, máy chém được lê khắp miền Nam để chặt đầu những người cộng sản với mục đích làm họ lung lạc ý chí.
Trong “cuộc chiến vì tự do”, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sát cánh và tiếp tay cho “ông chủ” của mình là quân viễn chinh Mỹ - những kẻ đã phạm nhiều tội ác phi nhân tính như hãm hiếp phụ nữ Việt Nam, thảm sát dân thường (tiêu biểu có trường hợp Mỹ Lai), sử dụng chất độc da cam, sử dụng bom napal và các loại bom chùm có sức sát thương tàn bạo…
Với những đòn nhục hình gần như chỉ để triệt hạ các tù binh cộng sản (đóng đinh vào đầu, đục răng, đục xương bánh chè, luộc sôi người, đốt cơ quan sinh dục…), nhà tù Phú Quốc - địa ngục trần gian do quân đội Sài Gòn tạo ra là minh chứng hùng hồn cho những vi phạm nhân quyền và những tội ác kiểu trung cổ trời không dung đất không tha của chế độ ngụy.
Như vậy, nếu nói rằng, cái mà người ta gọi là “Việt Nam Cộng hoà” ấy là “hợp pháp” thì chỉ có thể khẳng định rằng, người ta đã không hiểu gì về lịch sử Việt Nam, hoặc đó chỉ là những kẻ bị các thế lực có âm mưu đen tối lừa phỉnh, để rồi có những hành động đi ngược lại nguyện vọng của nhân nhân ta. Bọn chúng chỉ có thể gọi là những “con sâu mọt” - tham ăn ngon sống yên - đã chốn chạy ra nước ngoài từ khi Tổ quốc còn đang bị kẻ thù xâm lược, để rồi khi đất nước giành lại được độc lập thống nhất thì quay lại “làm càn”, chống phá lại chính nơi đã “chôn nhau cắt rốn” cho mình.

 Nguyện vọng của toàn dân Việt Nam đã rõ ràng ngay từ ngày đầu dân ta biết đến hai từ “Cách mệnh”, và đến nay vẫn mãi như thế. Đó là được sống trong một đất nước hoà bình, có một chính thể chính danh lãnh đạo đất nước là Đảng Cộng sản Việt Nam, là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà thôi. Chính thể ấy luôn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của đồng bào mà hành động, luôn phấn đấu cho lợi ích của Tổ quốc, cho hạnh phúc của quốc dân - đó là chính thể hợp với quy luật phát triển của cả dân tộc Việt Nam không có gì có thể thay đổi được./.

Xã hội ta là xã hội dân chủ

Tổ chức xã hội dân sự là lực lượng cùng góp phần với Nhà nước trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng của bộ máy nhà nước, là lực lượng khỏa lấp những khiếm khuyết của thị trường… nhằm đạt tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội tốt đẹp, phồn vinh, hạnh phúc. Vai trò quan trọng của các tổ chức xã hội dân sự được biểu hiện ở chỗ nó là cầu nối các cá nhân với Nhà nước; tham gia hoạch định và phối hợp với Nhà nước thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước; tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách và giám sát hoạt động của đội ngũ công chức Nhà nước; góp phần phát huy các nguồn lực nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người…
Tuy nhiên, cùng với những mặt tích cực của xã hội dân sự, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị đã, đang lợi dụng danh nghĩa này để tập hợp, lôi kéo người khác tham gia với ý đồ thành lập lực lượng đối trọng với Đảng, Nhà nước Việt Nam; lợi dụng các kẽ hở về mặt pháp luật, các vấn đề tiêu cực, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo… để tuyên truyền, xuyên tạc và âm mưu hình thành, công khai hóa các tổ chức chính trị đối lập tại Việt Nam.
Các đối tượng nhân danh chiêu bài “xã hội dân sự”, “dân chủ nhân quyền”, “bảo vệ Tổ quốc”… để lập hội, nhóm với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ, mục đích dễ gây “ấn tượng” với nhu cầu, thị hiếu của từng tầng lớp, thành phần xã hội nhất định như: “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Hội tù nhân lương tâm”, “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội nhà báo độc lập”, “Hội anh em dân chủ”… Bên cạnh đó, hoạt động của các tổ chức phản động nước ngoài cũng được đẩy mạnh theo hương thúc đẩy việc hình thành các tổ chức dân sự, xây dựng XHDS ở Việt Nam. Tại hội thảo Chuyển đổi Nhà nước Việt Nam: Các tác động lên Việt Nam và khu vực do các đối tượng bên ngoài tổ chức ở Hồng Công tháng 8-2008 đã tập trung bàn luận các nội dung: thách thức tự nhiên của XHDS đối với chế độ độc đảng ở Việt Nam; XHDS trong bối cảnh Việt Nam, sự trỗi dậy của XHDS qua việc tập trung vào hoạt động của Khối 8406 và Việt Tân. Qua đây cho thấy, các thế lực phản động bên ngoài rất quan tâm đến việc lợi dụng XHDS để thực hiện âm mưu lật đổ chế độ.
Ðáng chú ý là một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm chống đối cực đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp pháp để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi hỏi đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946, trưng cầu ý dân về Ðiều 4 cũng như toàn bộ Hiến pháp, lập Tòa án Hiến pháp, thúc đẩy XHDS và thực hiện các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư hữu hóa đất đai...
Có thể thấy rõ ràng, những luận điểm của các đối tượng nêu trên chỉ nhằm vào một mục đích là xoá bỏ chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thúc đẩy tự diễn biến, tự chuyển hoá, thông qua các tổ chức xã hội dân sự để đưa ra các kiến nghị nhằm xoay chuyển cả một chế độ.

Xã hội nước ta là một xã hội dân chủ, xã hội dân chủ chứ không phải xã hội dân sự, quyền dân chủ của nhân dân luôn được Nhà nước quan tâm tạo điều kiện phát huy đến mức tối đa. Nhưng dân chủ phải đi đôi với pháp luật, và dân chủ đó là nhằm xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Nước ta là một nước dân chủ, ...Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy. Cũng như tất cả công dân Việt Nam đều phải hiểu rõ và làm tròn nghĩa vụ kháng chiến cứu quốc.”, quyền dân chủ là quyền của mọi công dân, đồng thời với đó, là nghĩa vụ của công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, do đó, cần kiên quyết đấu tranh với các luận điểm lợi dụng xã hội dân sự đòi hỏi các yêu sách đi ngược lại lợi ích của dân tộc trên các diễn đàn mạng thời gian vừa qua.

Sự xuyên tạc trắng trợn trong dịp tết Đinh Dậu khi cho rằng “Mừng Đảng, mừng xuân” chỉ là mừng cho số ít, cho “lợi ích nhóm”

Thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch luôn chĩa mũi nhọn vào chống phá Đảng và chế độ, với mọi thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Trong dịp tết cổ truyền của dân tộc, họ rêu rao rằng: “Mừng Đảng, mừng xuân”, thì “Mừng Đảng”, nghĩa là chỉ mừng cho số ít, cho “lợi ích nhóm”. Đây là luận điệu hoàn toàn vu khống, xuyên tạc trắng trợn bản chất, mục đích hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.
Nói đến “nhóm lợi ích” và “lợi ích nhóm”, là thuật ngữ được dư luận hiểu theo nghĩa tiêu cực nhiều hơn. Bởi vì, trên thực tế, xuất phát từ lợi ích cá nhân mà một số người có “quyền”, có “tiền” câu kết “ngầm” với nhau tác động đến việc hoạch định chính sách, pháp luật về tài chính, ngân sách, đầu tư, đất đai, xây dựng cơ bản, ngân hàng,… để làm sao họ trục lợi được nhiều nhất, mang lại nguồn thu cao nhất. Ngoài ra, nhóm này còn theo đuổi lợi ích về chính trị, danh vọng, quyền lực, chỗ làm cho người thân,… gây tác hại nghiêm trọng đến tâm lý, dư luận, đời sống xã hội và thậm chí nguy hiểm hơn có thể dẫn đến sự phát triển chệch hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Điều này không chỉ được dư luận, các phương tiện truyền thông, mà nhiều lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước đã lên tiếng cảnh báo, đấu tranh quyết liệt. Chính vì vậy, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng xác định, đấu tranh chống “lợi ích nhóm” là nhiệm vụ quan trọng.
Từ đó cho thấy, nhóm lợi ích, tuy có ý nghĩa tích cực đối với một bộ phận nhỏ trong xã hội, không đại diện cho lợi ích của toàn dân, đồng thời nó mang tính tự phát, tổ chức lỏng lẻo. Chính vì vậy, nhóm lợi ích không thể là lực lượng lãnh đạo đất nước, không đại diện cho cả một chế độ của quốc gia, dân tộc.Chưa kể, vì lợi ích nhóm, mà dẫn đến những hành vi gây hại cho xã hội, cho đất nước. Thế mà, các thế lực thù địch lại gán cho Đảng Cộng sản Việt Nam như là một nhóm lợi ích, đồng nhất với nhóm lợi ích khác. Đúng là, “ăn không nói có”.
Chúng ta đều biết, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là tổ chức chặt chẽ nhất, mang bản chất giai cấp công nhân và có tính nhân dân rộng rãi. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển, v.v. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Có thể thấy rõ những điểm này trên cơ sở một số nội dung sau:
1.Đảng Cộng sản Việt Nam đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Ngay từ khi ra đời Đảng đã khẳng định, ghi trong Cương lĩnh chính trị, Điều lệ và được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định,“Đảng ta là đảng cách mạng, là Đảng lãnh đạo. Ngoài lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Quyền lãnh đạo đó được hiến định tại Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đó là tất yếu khách quan, sự thừa nhận và khẳng định của nhân dân về địa vị pháp lý lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
2.Trên thực tế, Đảng không chỉ kết nạp vào hàng ngũ của mình những người ưu tú trong giai cấp công nhân, mà còn cả những người ưu tú trong các tầng lớp nhân dân lao động, các dân tộc, tôn giáo. Do đó, lợi ích của Đảng là thống nhất với lợi ích của giai cấp và của cả dân tộc và từ khi có Đảng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành lại độc lập tự do cho tổ quốc và cũng từ đó nhân dân ta mới có những mùa xuân yên bình, hạnh phúc. Nó hoàn toàn khác với các nhóm lợi ích theo cách hiểu thông thường - đại diện của số ít người.
3. Với tư cách của một Đảng cách mạng chân chính, đạo đức và văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không thiên vị, dung túng, bao che cho những sai lầm, khuyết điểm, tiêu cực, tham nhũng của đảng viên, cán bộ. Là một thực thể xã hội, trong quá trình hoạt động, cán bộ, đảng viên của Đảng bên cạnh những ưu điểm, không tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng đã nhận ra khuyết điểm của mình, đề ra biện pháp kiên quyết khắc phục, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Đúng như Hồ Chí Minh đã khẳng định, một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình là một đảng mạnh. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng ta, tự phê bình và phê bình được tiến hành thường xuyên, liên tục, ở mọi cấp. Vì vậy, không nên quy chụp, lấy hiện tượng, dù là “bộ phận không nhỏ” này để đánh giá, quy kết bản chất của Đảng.
Vì vậy, xét về tổ chức, tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc hoạt động, thì Đảng Cộng sản Việt Nam không thể là nhóm lợi ích như các thế lực thù địch rêu rao. Thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam 87 năm qua của Đảng đã minh chứng rõ điều đó.
Trong thời gian này, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng, đã xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm kỷ luật đảng viên và xóa tên, cho ra khỏi Đảng nhiều trường hợp, trong đó có nhiều đảng viên phải truy tố trước pháp luật. Cùng với đó, việc xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng được đẩy mạnh; nhiều vụ án đã đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ. Đành rằng, đó là sự mất mát, bài học đau xót đối với Đảng, nhưng là việc phải làm và Đảng ta đã kiên quyết làm một cách nghiêm túc, triệt để. Qua đó, góp phần răn đe, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp. Do đó, Đảng luôn được nhân dân tin tưởng, coi đó là Đảng của mình.

Từ phân tích trên cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy độc lập dân tộc, sự phồn vinh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu hành động, ngoài ra Đảng không có lợi ích nào khác. Vì vậy, quan điểm cho rằng: “Mừng Đảng”, nghĩa là chỉ mừng cho số ít, cho “lợi ích nhóm”là hoàn toàn không có cơ sở. Thực chất, đây là sự xuyên tạc trắng trợn nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...