Có lẽ, do chưa thấu hiểu hết lịch sử Việt Nam hoặc do bị các
thế lực hắc ám nào đó lừa phỉnh nên hiện nay một số người, nhất là những người
ở hải ngoại, vẫn coi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta như một cuộc nội
chiến. Theo họ, cái chính thể mang tên “Việt Nam Cộng hòa” là hoàn toàn hợp
pháp và sự sụp đổ của chế độ đó là do sự “cưỡng chiếm” từ miền Bắc. Trước các
luận điệu hoặc ngộ nhận này, chúng ta cần nhìn lại lịch sử và làm một cuộc
“giải phẫu” chế độ Việt Nam Cộng hòa cùng hai công cụ bạo lực của nó là Quân
lực Việt Nam Cộng hòa và Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa để thấy rõ bản
chất của nó và những sự thật mười mươi:
Có thể
nói, ngay từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” đã
không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và
ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một
“sáng tạo” thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu lợi ích riêng của
họ.
Trong khi đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập một
cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng
tháng Tám của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân
Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông
đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến
pháp đầu tiên được thông qua - hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho
nhà nước dân chủ mới khai sinh.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành những sắc
lệnh, những văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam. Không những vậy, sau năm 1954 nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự với trận Điện Biên Phủ
lừng lẫy năm châu, vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh
thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả
phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó.
Theo Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam chỉ tạm thời bị chia cắt
làm 2 miền, giới tuyến quân sự chỉ là tạm thời và không phải là biên giới quốc
gia. Theo Hiệp định này, hai bên sẽ tiến hành hiệp thương để thống nhất đất
nước trong năm 1956. Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm - do Mỹ đưa về Việt Nam làm Thủ
tướng của chính phủ bù nhìn Bảo Đại - đã tuyên bố không có tổng tuyển cử gì
hết, trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ, và đi ngược lại nguyện vọng thống
nhất của dân tộc. Thời đó, người Mỹ và phe cánh của Diệm lo sợ uy tín to lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Đảng Lao động Việt Nam và tin
rằng nếu tiến hành bầu cử tự do, Hồ Chí Minh sẽ giành được tới 80% số phiếu.
Do vậy, Diệm với sự giúp đỡ của người Mỹ đã phải sử dụng
nhiều “mưu hèn kế bẩn” để củng cố quyền lực của mình (với tư cách là Thủ
tướng), rồi gian lận trong cuộc “trưng cầu dân ý” để hạ bệ luôn Quốc trưởng Bảo
Đại, dựng lên “Việt Nam Cộng hòa” với Diệm làm Quốc trưởng và sau đó là Tổng
thống. Tiếp đó, Diệm áp dụng nhiều chiêu thức man rợ để tàn sát những người
kháng chiến cũ và những người yêu nước chân chính, khủng bố tinh thần của nhân
dân, củng cố chính quyền phản động của mình, công khai phá hoại Hiệp định
Giơnevơ, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước. Sau khi đã củng cố vững chắc chính
quyền, Ngô Đình Diệm đã tước đoạt đất đai của nông dân và khôi phục lại giai
cấp địa chủ. Cho nên, sau này dù có mị dân đến mấy, chính quyền này cũng không
giành được sự ủng hộ ở nông thôn.
Về bản chất chính trị, “Việt Nam Cộng hòa” đại diện cho các
tầng lớp tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ. Nền tảng trực tiếp cho sự ra đời
của Việt Nam Cộng hòa là chính thể “Quốc gia Việt Nam” (1949-1955) - đây là một
chế độ bù nhìn do Pháp lập nên trong thời kỳ kháng Pháp và do Bảo Đại làm quốc
trưởng. Quốc kỳ “ba que” của Việt Nam Cộng hòa cũng chính là quốc kỳ của “Quốc
gia Việt Nam” được Pháp “trao trả độc lập”.
Như vậy, ngay từ đầu, chính thể này đã phạm nhiều tội ác và
mang “gene” Việt gian rất rõ nét. Bước chuyển từ “Quốc gia Việt Nam” sang “Việt
Nam Cộng hòa” là bước chuyển từ làm tay sai cho thực dân Pháp sang làm tay sai
cho đế quốc Mỹ mà thôi. Theo thời gian, chính thể Việt Nam Cộng hòa ngày càng
thối nát với tệ nạn tham nhũng, các cuộc đấu đá nội bộ và các cuộc đảo chính
quân sự. Chế độ này không đại diện cho dân tộc và trên thực tế đã bị nhân dân
và lịch sử quay lưng lại.
Còn tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rất
cao, nên Mỹ không thể lấy cớ để lôi kéo quân của Liên Hợp Quốc vào lãnh thổ
Việt Nam tham chiến như đã từng xảy ra trên bán đảo Triều Tiên được.
Mặt khác
quan trọng nữa là, chính thể Việt Nam Cộng hòa là phi
pháp nên các công cụ bạo lực của nó cũng chỉ là lực lượng phản dân hại nước,
đang tâm làm tay sai cho các thế lực ngoại bang.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa thường khoe là chiến đấu cho tự
do. Tuy nhiên quân đội này lại xuất phát từ chính lực lượng ngụy quân đã sát
cánh bên quân đội viễn chinh Pháp dưới lá cờ tam tài! Đa phần các tướng lĩnh
cao cấp của quân đội Sài Gòn đều đã từng phục vụ trong quân đội Pháp hoặc quân
đội “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại để bảo vệ nền thống trị của người Pháp ở
Đông Dương.
Cái gọi là “Cảnh sát Quốc gia” của chế độ ngụy cũng không
hơn. Nó bắt nguồn từ lực lượng cảnh sát và mật thám của Pháp tại Đông Dương từ
năm 1946.
Đến khi đổi chủ, hai lực lượng này lại hết lòng với các quan
thầy Mỹ. Dù người ta có ngụy biện đến thế nào cũng không thể phủ nhận bản chất
tay sai của quân đội và cảnh sát ngụy. Cả quân lực và cảnh lực ngụy đã tham gia
vào những chiến dịch “diệt cộng” rất dã man, trên tinh thần “thà giết nhầm còn
hơn bỏ sót”. Thời Diệm, với luật 10/59, máy chém được lê khắp miền Nam để chặt
đầu những người cộng sản với mục đích làm họ lung lạc ý chí.
Trong “cuộc chiến vì tự do”, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã
sát cánh và tiếp tay cho “ông chủ” của mình là quân viễn chinh Mỹ - những kẻ đã
phạm nhiều tội ác phi nhân tính như hãm hiếp phụ nữ Việt Nam, thảm sát dân
thường (tiêu biểu có trường hợp Mỹ Lai), sử dụng chất độc da cam, sử dụng bom
napal và các loại bom chùm có sức sát thương tàn bạo…
Với những đòn nhục hình gần như chỉ để triệt hạ các tù binh
cộng sản (đóng đinh vào đầu, đục răng, đục xương bánh chè, luộc sôi người, đốt
cơ quan sinh dục…), nhà tù Phú Quốc - địa ngục trần gian do quân đội Sài Gòn
tạo ra là minh chứng hùng hồn cho những vi phạm nhân quyền và những tội ác kiểu
trung cổ trời không dung đất không tha của chế độ ngụy.
Như vậy, nếu nói rằng, cái mà người ta gọi là “Việt Nam Cộng hoà” ấy
là “hợp pháp” thì chỉ có thể khẳng định rằng, người ta đã không hiểu gì về lịch
sử Việt Nam, hoặc đó chỉ là những kẻ bị các thế lực có âm mưu đen tối lừa
phỉnh, để rồi có những hành động đi ngược lại nguyện vọng của nhân nhân ta. Bọn
chúng chỉ có thể gọi là những “con sâu mọt” - tham ăn ngon sống yên - đã chốn
chạy ra nước ngoài từ khi Tổ quốc còn đang bị kẻ thù xâm lược, để rồi khi đất
nước giành lại được độc lập thống nhất thì quay lại “làm càn”, chống phá lại
chính nơi đã “chôn nhau cắt rốn” cho mình.
Nguyện vọng của toàn
dân Việt Nam đã rõ ràng ngay từ ngày đầu dân ta biết đến hai từ “Cách mệnh”, và
đến nay vẫn mãi như thế. Đó là được sống trong một đất nước hoà bình, có một
chính thể chính danh lãnh đạo đất nước là Đảng Cộng sản Việt Nam, là Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà thôi. Chính thể ấy luôn vì cuộc sống ấm
no, hạnh phúc của đồng bào mà hành động, luôn phấn đấu cho lợi ích của Tổ quốc,
cho hạnh phúc của quốc dân - đó là chính thể hợp với quy luật phát triển của cả
dân tộc Việt Nam không có gì có thể thay đổi được./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét