Nhiều năm nay đối với Việt Nam, các thế lực
thù địch liên tục triển khai các hoạt động truyền bá, gieo rắc thông tin sai
trái, xuyên tạc vấn đề dân chủ, nhân quyền. Họ khai thác trên biên độ rất rộng
từ tự do tôn giáo, tự do ngôn luận đến các chính sách của Nhà nước, thực thi
pháp luật... Để thực hiện mưu đồ, họ lập nhiều tổ chức nhân danh dân chủ, nhân
quyền, có “tổ chức” chỉ gồm vài ba người, hoặc một người ghi tên ở mấy nơi khác
nhau.
Với sự phối hợp chặt chẽ trong
- ngoài, những việc làm này được tiến hành thường xuyên, sử dụng nhiều website,
blog, facebook đăng tải tin tức, bình luận bịa đặt, luôn được sự phụ họa, hỗ
trợ của RFA, BBC, VOA, RFI... mấy kẻ nhân danh dân chủ, nhân quyền triệt để
khai thác một số hiện tượng tiêu cực để xuyên tạc thành bản chất xã hội, tiến
hành thủ đoạn tuyên truyền với hình thức ngày càng tinh vi, xảo quyệt, phát tán
tin tức bịa đặt với tần số cao, biên độ rộng... Họ kêu gào phải sao chép mô
hình dân chủ phương Tây, gieo rắc các quan niệm mơ hồ, lệch lạc như: “nhân
quyền cao hơn chủ quyền”, “nhân quyền không biên giới”, “lợi ích cá nhân cao
hơn lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia”...
Một trong những thủ đoạn mà các thế lực thù địch thường
xuyên sử dụng nhằm vu cáo, bịa đặt về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam là cắt xén
một số văn bản chính thức của Nhà nước Việt Nam và Liên hợp quốc (LHQ), rồi dựa
vào đó xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm các cam
kết về dân chủ, nhân quyền... Thí dụ:
- Họ cho rằng Hiến pháp Việt Nam cho phép tự do lập hội, tự
do biểu tình, tự do ngôn luận và lấy đó làm cơ sở để thực hiện các hành vi vi
phạm pháp luật. Về việc này, Điều 25 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (2013)
khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định”, tức là những quyền đó phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật.
- Họ cố tình biến Tuyên ngôn thành “luật pháp quốc tế”,
trong khi văn bản này mang tính khuyến nghị, khuyến khích các quốc gia phấn đấu
đạt tới, và là cam kết chính trị - đạo đức hơn là ràng buộc về chính trị - pháp
lý. Như Điều 29 Tuyên ngôn yêu cầu: “1. Mọi người đều có các nghĩa vụ đối với
cộng đồng mà ở đó có thể thực hiện được sự phát triển tự do và đầy đủ nhân cách
của bản thân. 2. Trong khi thực hiện các quyền và quyền tự do cho cá nhân, mọi
người chỉ phải tuân thủ các hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo
đảm việc thừa nhận, tôn trọng các quyền và quyền tự do của người khác, đáp ứng
các đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong
một xã hội dân chủ”. Như vậy theo LHQ, việc thực thi quyền của cá nhân luôn
phải đặt trong tương quan với luật pháp, cộng đồng, quyền của người khác và
thực hiện các nghĩa vụ đối với cộng đồng,...
- Họ coi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(Công ước) là cơ sở thực hành tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự
do lập hội không giới hạn! Trong khi đó, về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, khoản 3
Điều 18 Công ước khẳng định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ
có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này là
cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của
công chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản của người khác”; về tự do ngôn
luận, khoản 3 Điều 19 viết: “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2
của Điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể dẫn
tới một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp luật
quy định và cần thiết để: a. Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b.
Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công
chúng”; về tự do lập hội, khoản 2 Điều 22 Công ước khẳng định: “Việc thực hiện
quyền này không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định và những hạn
chế này là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an
toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe của công chúng hoặc nhân cách,
hoặc các quyền và tự do của người khác...”. Nghĩa là theo Công ước, để bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội, tôn trọng quyền của người khác, bảo đảm về đạo đức,...
việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do lập hội
phải được đặt trong khuôn khổ luật pháp.
Là dân tộc phải đem xương máu để giành độc lập và xóa bỏ sự
bóc lột, hơn ai hết, mọi người Việt Nam đều hiểu rằng, dân chủ, nhân quyền là
các giá trị thiêng liêng, cao cả và xã hội mới phải tiếp tục bảo vệ, phát triển
dân chủ, nhân quyền. Vì thế, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm tới vấn đề
này, thể hiện trong các quan niệm, chủ trương, chính sách, qua hành động thiết
thực làm cho dân chủ, nhân quyền trở thành các giá trị chung, nhân dân thật sự
làm chủ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam
ngày càng hoàn thiện các quan điểm về dân chủ, nhân quyền, coi nỗ lực thể chế
hóa, luật hóa quan điểm dân chủ, nhân quyền là yêu cầu bức thiết của phát
triển. Năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở, khẳng định “phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân
dân tham gia quản lý nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất
dân chủ và nạn tham nhũng”; sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định 29/1998/NĐ-CP
(đến năm 2003 thay thế bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) kèm theo Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã quy định về nội dung, phương thức, trách nhiệm của chính
quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân; năm 2007, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn… Đây là các bước đi thống nhất, đồng bộ về chủ trương kết hợp hành
động cụ thể tạo điều kiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Về nhân
quyền, Chỉ thị 12-CT/TW Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của
Đảng ta của Ban Bí thư (khóa VII) khẳng định “Quyền con người là giá trị chung
của nhân loại. Đó là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động và các
dân tộc trên thế giới chống lại mọi áp bức, bóc lột” và “giải phóng con người
(trong đó có việc đảm bảo các quyền con người) gắn liền với giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội; chỉ có dưới tiền đề độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được đảm bảo rộng rãi,
đầy đủ, trọn vẹn nhất”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội XI, Đại
hội XII của Đảng luôn nhấn mạnh phải quan tâm hơn nữa đến việc chăm lo hạnh
phúc, sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam ký kết. Và kết quả của sự phát triển nhận thức, tư duy về dân
chủ, nhân quyền thể hiện cụ thể tại Chương II nhan đề Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân Hiến pháp năm 2013, được khẳng định tại Điều 14: “Ở nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật”. Do đó, cần khẳng định dứt khoát rằng, bản chất nhân
văn của sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân đã lựa chọn là không thể phủ nhận. Bản chất ấy thể hiện qua đường lối, chủ
trương, chính sách bảo đảm dân chủ trong xã hội, bảo đảm quyền của con người,
chú trọng tuyên truyền ý nghĩa và chuẩn mực về dân chủ, nhân quyền giúp mọi
người nắm bắt các quyền của mình, qua đó xác định mục đích phấn đấu, cống hiến
và hưởng các quyền lợi xã hội. Đó là cơ sở để hơn nửa thế kỷ qua, nhất là sau
30 năm của sự nghiệp đổi mới, đất nước đã đạt được các thành tựu cụ thể về dân
chủ, nhân quyền mà dư luận thế giới đã ca ngợi và ghi nhận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét