Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 26 tháng 6, 2023

NVH40 - NÂNG CAO CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG CHIÊU TRÒ LỢI DỤNG MẠNG XÃ HỘI ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 

Những năm gần đây, sự phát triển của công nghệ thông tin và các ứng dụng trên không gian mạng đã làm thay đổi bộ mặt của xã hội. Lợi dụng sự phát triển nhanh chóng này mà các thế lực thù địch đã tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phát tán nhiều thông tin sai trái, xấu, độc trên mạng xã hội nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Vì thế, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân hiện nay là cần phải tỉnh táo, nhận thức đúng trách nhiệm của mình trong việc tiếp nhận thông tin nhất là trên các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo,… để không rơi vào âm mưu tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng xã.

Hiện nay, mạng xã hội bùng nổ với số lượng người tham gia ngày càng lớn. Đặc biệt là các trang mạng như: Facebook, Zalo. Vì vậy, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các công cụ này để đẩy mạnh các hoạt động chống phá từ bên ngoài, tạo dựng lực lượng chống đối từ bên trong. Các phần tử phản động xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thổi phồng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. Đồng thời móc nối, cấu kết với những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái, biến chất nhằm lôi kéo, mua chuộc, tạo lực lượng chống phá từ bên trong. Trong đó, số hoạt động ở nước ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động, các đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài vu cáo, xuyên tạc tình hình đất nước. Lợi dụng internet, mạng xã hội để lan truyền các clip, tài liệu xuyên tạc, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và địa phương,... nhằm gây hoang mang, hoài nghi, suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước.

Trên địa bàn huyện Nam Trà My, trong thời gian qua lợi dụng tình hình chiến sự Nga - Ucraina diễn biến phức tạp, làm giá cả thị trường leo than, nhất là giá xăng dầu tăng cao; một số cán bộ, đảng viên cấp cao của Đảng bị bắt, khai trừ Đảng do liên quan đến công tác phòng, chống dịch Covid-19. Các thế lực thù địch, phản động lưu vong nước ngoài thường xuyên cập nhật thông tin, viết bài chia sẽ những hình ảnh về chiến sự Nga – Ucraina, sự ưu việc về chính sách của các nước phương tây, thiệt hại của người dân Ucraina, sự tàn phá của Nga liên quan đến dân thường,… hay làm nhiều phóng sự, video về những quan chức cấp cao của Đảng suy thoái, biến chất vì tham nhũng, một số nội dung liên quan đến tôn giáo, dân chủ, đăng lên Youtube, Facebook, Zalo,… với mục đích lôi kéo cán bộ, đảng viên, nhân dân xem, thích, bình luận, chia sẻ, gây rối loạn thông tin, tạo tâm lý hoang mang, ngờ vực trong cán bộ, đảng viên, nhân dân về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hầu hết thông tin được đăng tải sai sự thật, pha lẫn với một số sai phạm của một số cán bộ, đảng viên nên cán bộ, đảng viên, người dân khi cập nhật thông tin, không sáng suốt, không có lập trường, quan điểm vững vàng sẽ rơi vào âm mưu chống phá của bọn chúng.

 Để làm tốt nhiệm vụ đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, các quan điểm xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, của các thế lực phản động trong và ngoài nước trên mạng xã hội, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần nâng cao khả năng nhận diện với các thông tin xấu, độc, nguy hại đối với bản thân và xã hội. Đồng thời, xây dựng phong cách văn hóa khi tham gia trên không gian mạng; có ý thức cảnh giác, không đăng tải hoặc để lộ, lọt thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật quốc gia…. Phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch trên không gian mạng, chỉ cập nhật những thông tin chính thống, không xem và chia sẻ những thông tin chưa được kiểm chứng, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình,… không để đồng nghiệp, người nhà của mình bị lôi kéo, dụ dỗ mà cố ý hoặc vô tình ủng hộ, chia sẻ, lan truyền những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội.

Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần sử dụng trang mạng xã hội như một kênh thông tin, tuyên truyền những thông tin chính thống về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, chủ động và thường xuyên tham gia bình luận, chia sẻ các bài viết về những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những mô hình mới, cách làm hay của các cơ quan, đơn vị, địa phương và cá nhân trong tham gia thực hiện các phong trào thi đua yêu nước.

Đấu tranh phòng, chống hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta là công việc khó khăn, phức tạp, lâu dài. Vì vậy, hơn bao giờ hết, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần phải tỉnh táo, sáng suốt trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình; phải luôn xây dựng khối đại đoàn kết ngày càng vững mạnh, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi những thông tin sai lệch trên không gian mạng.

 

NVH40 - Tự do tôn giáo tại Việt Nam qua góc nhìn của một mục sư Tin Lành Mỹ

 

Mục sư người Mỹ Franklin Graham vừa có thời gian trải nghiệm công tác rao giảng Kinh thánh và tham dự các sự kiện tôn giáo tại Việt Nam, đây là lần thứ 2 mục sư người Mỹ nổi tiếng về giảng đạo Tin Lành này đến Việt Nam (lần thứ nhất vào tháng 7/2017). Đặc biệt mục sư người Mỹ đã có cuộc viếng thăm Phó Thủ tướng Chính phủ là ông Lê Minh Khái để bày tỏ tôn trọng về sự tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Theo thông tin từ đại diện tổ chức Tin Lành Việt Nam, ông Graham là Chủ tịch Hiệp hội truyền giáo Billy Graham, Chủ tịch Tổ chức Cứu trợ, truyền giáo cơ đốc quốc tế Samaritan’ Purse (theo Ban Tôn giáo chính phủ ghi nhận, tổ chức cứu trợ, truyền giáo cơ đốc quốc tế Samaritan’s Purse đã hỗ trợ xây dựng những dự án nước sạch, vệ sinh nông thôn, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ở Việt Nam), được đánh giá là người có tư tưởng uyên thâm về đạo Tin Lành, nổi tiếng trên thế giới và thường được các tổ chức Tin Lành lớn mời về giảng dạy Kinh thánh cho chức sắc, tín đồ của mình.

Với vị thế là một mục sư Tin Lành người Mỹ, chính Mỹ là nôi khởi phát nhiều tổ chức Tin Lành lớn trên thế giới với hơn 90% các tổ chức Tin Lành có nguồn gốc từ Tin Lành Mỹ, Mỹ trở thành trung tâm truyền giáo lớn nhất hành tinh, có tầm ảnh hưởng cả về tín điều, giáo lý lẫn sự hỗ trợ về tài chính, đào tạo chức sắc đạo Tin Lành.

Qua buổi làm việc với Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, mục sư Tin Lành người Mỹ đã bày tỏ niềm vui khi được cảm nhận về sự tự do tôn giáo tại Việt Nam; cảm ơn Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho ông được trở lại Việt Nam để thực hiện bổn phận. Phía Việt Nam chia sẻ về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam như công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo, với khoảng 26,5 triệu người có đạo, chiếm 27% dân số cả nước. Các tôn giáo có đông người theo đạo là Phật giáo, Công giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Tin lành, Cao Đài; đặc biệt đạo Tin Lành là tôn giáo mới xuất hiện ở Việt Nam trong hơn 100 năm qua nhưng đã có số tín đồ là 1,2 triệu người theo đạo Tin lành, hơn 100 tổ chức, sinh hoạt tôn giáo ổn định tại gần 6.000 điểm nhóm, có mặt tại tất cả các tỉnh, thành phố.

        Mục sư người Mỹ đã chia sẻ chân thành rằng “Khi tôi trở lại Hoa Kỳ, tôi sẽ làm Đại sứ cho quý vị. Tôi rất vui khi được chia sẻ với chính giới và người dân Hoa Kỳ về tự do tôn giáo mà tôi được trải nghiệm tại Việt Nam”.

        Đây là điều rất quý trọng bởi khi ông Grahm tới Việt Nam không chỉ đại diện cho một tôn giáo ở Mỹ mà sẽ là tiếng nói quan trọng để cho chính giới Mỹ hiểu rõ hơn tự do tôn giáo ở Việt Nam, việc Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách các nước cần quan tâm về tôn giáo – SWL là chưa xác đáng, chưa đúng với thực tế tự do tôn giáo ở Việt Nam.

NVH40 - NHẬN DIỆN VÀ PHÒNG NGỪA CÁC THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ VIỆT NAM HIỆN NAY

 

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, những năm qua, tôn giáo là một trong những nội dung chiến lược được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội (ANCT, TTATXH), tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng coi đó là một yếu tố quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống phá từ bên trong.

Nhận diện các thủ đoạn, phương thức thâm độc

Qua nghiên cứu, có thể khái quát một số thủ đoạn, phương thức cơ bản mà các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo thời gian gần đây để chống phá nước ta như sau:

Một là, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước, tích cực thúc đẩy liên kết hoạt động giữa các tôn giáo hòng từng bước biến tôn giáo thành lực lượng chính trị đối trọng với Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chúng đẩy mạnh phát triển các hội đoàn tôn giáo, khuếch trương thanh thế, kết hợp với tăng cường truyền đạo trái phép, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) ở Tây Bắc, Tây Nguyên để tập hợp quần chúng, gây áp lực với chính quyền địa phương. Chúng đã lập ra các hội, nhóm liên kết bất hợp pháp núp dưới danh nghĩa tôn giáo như “Hội đồng liên tôn Việt Nam”,“Hội đồng nhân quyền Việt Nam”, “Văn phòng Công lý-Hòa bình”... để lôi kéo, mua chuộc quần chúng, tín đồ nhằm tập hợp lực lượng tiến hành các hoạt động phá hoại ANCT, TTATXH ở một số địa phương. Đáng chú ý, kẻ địch triệt để đẩy mạnh hoạt động lấn chiếm, chuyển nhượng đất đai trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, như: Vụ lấn chiếm đất đai trái pháp luật tại Giáo xứ Sở Kiện (Hà Nam); vụ lấn chiếm, chuyển nhượng đất đai trái phép tại Giáo xứ Xuân Hòa (Bắc Ninh); vụ dòng Thiên An lấn chiếm đất rừng ở Hương Thủy (Thừa Thiên Huế)... Thông qua đó, đòi tư hữu hóa đất đai, gây mâu thuẫn giữa các chức sắc, tín đồ với chính quyền, kích động chức sắc, tín đồ tôn giáo cản trở việc thực hiện chính sách, pháp luật, chống người thi hành công vụ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình ANCT, TTATXH tại địa phương...

Hai là, chúng triệt để lợi dụng chiêu bài “tôn giáo hóa dân tộc” để thâm nhập, lôi kéo, tập hợp lực lượng là người DTTS, tiến tới hình thành tổ chức phản động trên địa bàn. Chúng thông qua các tôn giáo đã phát triển ở vùng DTTS hoặc lập ra một số hình thức "tôn giáo riêng" cho người DTTS như "Tin lành của người Mông" để thành lập “Nhà nước Mông” ở Tây Bắc; "Phật giáo Nam Tông Khmer" để thành lập “Vương quốc Chăm Pa” ở vùng DTTS Nam Trung Bộ, “Nhà nước Khmer Kampuchea Krom” ở Tây Nam Bộ... thực chất là hình thành các tổ chức phản động chống phá Nhà nước ta. Đáng chú ý, gần đây, tổ chức phản động “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên” (CHPC) do A Đảo (Sa Thầy, Kon Tum) làm “Giáo hội trưởng” đã kết nối với các đối tượng trong nước tuyên truyền, lôi kéo chức sắc, tín đồ và người dân tập hợp lực lượng, từng bước công khai hóa hoạt động. Chúng móc nối, lôi kéo, hướng dẫn các tín đồ theo đạo Tin lành thuần túy trong nước tham gia các buổi tập huấn trực tuyến về nhân quyền mà thực chất chính là các buổi đào tạo kỹ năng hoạt động “xã hội dân sự”; hướng dẫn phương pháp thu thập, cung cấp các thông tin sai lệch về tình hình trong nước để xuyên tạc, vu cáo ta trên mạng xã hội và các diễn đàn quốc tế.

Ba là, lợi dụng thần quyền, giáo lý, giáo luật để kích động, ép buộc đồng bào tôn giáo chống lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; lôi kéo, kích động tín đồ và nhân dân biểu tình, gây rối để lấy cớ can thiệp từ bên ngoài. Đó là những biểu hiện như hoạt động chỉ đạo, kích động chống đối chính sách, pháp luật, bất hợp tác với chính quyền trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp tại địa phương hay công khai bày tỏ thái độ thách thức chính quyền, coi thường pháp luật, kích động bạo lực, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ta, kêu gọi đa nguyên, đa đảng, lật đổ chế độ...

Bốn là, triệt để tác động, lôi kéo các chính khách cực đoan trong chính trường một số nước để tác động quốc hội, nghị viện các nước này thông qua các báo cáo, nghị quyết, thông cáo xuyên tạc tình hình tôn giáo, dân tộc ở trong nước, vu cáo Nhà nước vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo. Thông qua các cuộc hợp tác song phương, đa phương giữa Mỹ và các nước đồng minh với Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội để gây sức ép với Việt Nam về dân tộc, tôn giáo, tìm cách gắn “các yêu sách về vấn đề tôn giáo, dân tộc”, “dân chủ, nhân quyền” trong quan hệ song phương, đa phương với Việt Nam; từ đó hòng tìm cách can thiệp vào nội bộ nước ta. Ở bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong ráo riết vận động Việt kiều, người nước ngoài ủng hộ kinh phí, vật chất, phương tiện rồi tìm cách đưa vào trong nước để “nuôi dưỡng, hậu thuẫn” các đối tượng trong nước hoạt động quyết liệt, tích cực hơn. Chúng còn móc nối với số cơ hội chính trị trong nước thu thập tin tức, tình hình dân tộc, tôn giáo, việc xử lý các đối tượng vi phạm pháp luật, những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo ở địa phương rồi bóp méo, xuyên tạc trên các diễn đàn, trên mạng xã hội, phương tiện truyền thông nhằm hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Chủ động, đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các tôn giáo ở nước ta không ngừng được cải thiện, nâng lên, đồng bào có đạo và nhân dân tích cực tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Các lực lượng chức năng đã kịp thời giải quyết bức xúc trong cộng đồng các tôn giáo và nhân dân, ổn định an ninh trật tự tại địa bàn, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân; xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật; tranh thủ được sự ủng hộ của đa số quần chúng và đồng bào các tôn giáo. Các bộ, ngành chức năng và các địa phương đã chủ động rà soát hệ thống pháp luật về tôn giáo hiện hành, xác định nội dung cần sửa đổi, bổ sung, phù hợp thực tế; tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Đồng thời, chủ động tuyên truyền đối nội kết hợp với tuyên truyền đối ngoại nhằm tuyên truyền mạnh mẽ về thành tựu của ta trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần đấu tranh, phản bác các luận điệu, thông tin xuyên tạc tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở trong nước, vu cáo Nhà nước ta đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền.

Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo để phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi công tác này phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Trong đó, tiếp tục chú trọng xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là ở cấp cơ sở vững mạnh, trong sạch, thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu lực hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân. Tiếp tục phát huy và thực hiện đồng bộ, triệt để, hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở trong vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Đề cao tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các DTTS không trái với lợi ích chung của đất nước; kiên quyết chống tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo.

Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xã hội cho đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa; giải quyết kịp thời các nguyện vọng chính đáng của đồng bào các DTTS, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở pháp luật. Tiếp tục bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc của các dân tộc; quan tâm xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; trong đó, tập trung xây dựng các khu vực phòng thủ; xây dựng LLVT nhân dân trên địa bàn vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong giữ vững an ninh trật tự tại địa phương.

Các ban, bộ, ngành chức năng cần tiếp tục chủ động, thường xuyên tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân, tín đồ, chức sắc tôn giáo về chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo và âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá ta thông qua nhiều kênh, bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú khác nhau; làm cho tín đồ, chức sắc và người dân hiểu rằng, đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật cũng là bảo vệ tôn giáo chân chính và quyền lợi của chính họ. Để từ đó khuyến khích, thúc đẩy nhân dân, tín đồ, chức sắc tự giác tham gia vào công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng tự do tôn giáo vi phạm pháp luật của kẻ địch. Làm tốt công tác nắm tình hình, phát hiện, phối hợp giải quyết kịp thời, dứt điểm các mâu thuẫn, khiếu kiện, “điểm nóng” liên quan đến dân tộc, tôn giáo, không để lây lan, kéo dài, vượt cấp. Chú trọng đẩy mạnh công tác vận động quần chúng và tranh thủ chức sắc tôn giáo, phát huy tác dụng của các đoàn thể tôn giáo yêu nước. Kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành vi phát triển các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo, tà đạo, đạo lạ, kiên quyết xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng tự do tôn giáo để xuyên tạc, chống phá Việt Nam.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và đấu tranh đối ngoại; thông qua các phương tiện thông tin truyền thông, qua kênh ngoại giao, hợp tác quốc tế, làm cho các nước, các tổ chức quốc tế và nhân dân thế giới hiểu đúng, hiểu đầy đủ về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, kết quả xử lý những vụ việc, đối tượng lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật Việt Nam. Đặc biệt, cần tuyên truyền tới đông đảo quần chúng trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng bản chất hoạt động vi phạm pháp luật của các đối tượng lợi dụng tôn giáo ở Việt Nam thời gian qua. Vận động nhân dân tích cực ủng hộ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; góp phần đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả các luận điệu xuyên tạc, vu cáo của những phần tử xấu.

 

NVG40 - “PHẢI CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ. PHẢI LÀM SAO CHO TRONG QUÂN ĐỘI TA KHÔNG CÓ THAM Ô LÃNG PHÍ. PHẢI NÂNG CAO Ý THỨC VÀ KỶ LUẬT LAO ĐỘNG PHẢI NÂNG CAO Ý THỨC TIẾT KIỆM”

 

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi nói chuyện với các đơn vị quân đội tại Quân khu 4, ngày 15/6/1957. Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đất nước vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, để động viên khích lệ tinh thần học tập, lao động, chiến đấu của cả dân tộc, trong đó có lực lượng vũ trang; khi đến thăm các đơn vị quân đội tại Quân khu 4, Bác đã căn dặn: Có 3 điều khen ngợi, 4 điều phê bình, 5 điều dặn dò. Trong 05 điều dặn dò thì điều thứ tư là: “Phải chống tham ô lãng phí. Phải làm sao cho trong quân đội ta không có tham ô lãng phí. Phải nâng cao ý thức và kỷ luật lao động. Phải nâng cao ý thức tiết kiệm”.

Lời nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, không chỉ thể hiện sự quan tâm của Đảng, Bác Hồ đối với lực lượng vũ trang, mà còn thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong việc đấu tranh chống tham ô lãng phí, một “loại giặc” rất nguy hiểm tồn tại ngay trong chính bản thân mỗi con người, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, cản trở sự phát triển bền vững của đất nước, cần phải kiên quyết đấu tranh.

Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam ra sức học tập, rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực chuyên môn nghiệm vụ; chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm; kiên quyết đấu tranh phòng chống, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

 

NVG40 - DỰA VÀO NHÂN DÂN ĐỂ XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

 

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta thường xuyên chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng. Trong đó, phát huy vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Đại hội XIII tiếp tục xác định là nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

Sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của Đảng

Phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng là một nguyên tắc xây dựng Đảng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Bởi lẽ, Đảng ta không có mục tiêu nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhân dân là chỗ dựa vững chắc, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng. Với Đảng, “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(1).

Vì thế, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm nền tảng của việc dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng là “theo đúng đường lối nhân dân”, với sáu nội dung cơ bản: “Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết;/ Liên hệ chặt chẽ với nhân dân;/ Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ;/ Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình;/ Sẵn sàng học hỏi nhân dân;/ Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo”(2).

Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng không chỉ là nhiệm vụ của riêng Đảng, mà còn là trách nhiệm của nhân dân, bởi Đảng là của dân tộc; Đảng không có mục tiêu nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Muốn vậy, Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy dân chủ, bảo đảm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách thực chất, hiệu quả.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn thấm nhuần và hết sức coi trọng việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Đại hội XIII của Đảng đánh giá toàn diện về phát huy vai trò của nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đồng thời xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ quan trọng này trong thời gian tới, đặc biệt là sự vận dụng đầy đủ, toàn diện, sáng tạo, ngày càng sâu sắc hơn những nội dung, phương thức phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng ngay từ khi mới thành lập, là kinh nghiệm quý báu của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Các đại hội Đảng trước đây đều nêu vấn đề dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, cả trong Điều lệ Đảng và trong tổng kết bài học kinh nghiệm. Đại hội XIII của Đảng thể hiện tư duy mới và quyết tâm chính trị cao là “sửa chữa” từ trong nội bộ, để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Đại hội yêu cầu phát huy vai trò quan trọng, sự tham gia có hiệu quả của nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, giữa các vùng, miền, địa phương; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội. Quyết định số 23-QĐ/TW, ngày 30-7-2021, của Bộ Chính trị, “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”, tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tổ chức hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lấy kết quả thực hiện công việc, sự hài lòng, tín nhiệm và hạnh phúc của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định đặc biệt coi trọng, đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu. Đảng ta xác định 10 nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng(3); trong đó, nhấn mạnh việc tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả nhiệm vụ, giải pháp: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(4).

Công tác dân vận là một nội dung rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Quan điểm Đại hội XIII của Đảng là cần nhận thức sâu sắc và rõ hơn về vai trò, nội dung của công tác dân vận; không nên hiểu dân vận chỉ là sự vận động một chiều từ phía Đảng, nhằm tác động tới quần chúng nhân dân, tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mà cần phải làm rõ hơn nữa vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, ủng hộ và bảo vệ Đảng. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới”(5).

Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò, tầm quan trọng của nhân dân trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của Kết luận Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII có nội dung: “Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”(6).

Quan điểm Đại hội XIII của Đảng là xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị. Vì vậy, việc nhân dân tham gia xây dựng Đảng cũng là góp phần quan trọng vào xây dựng Nhà nước, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhân dân phát huy được quyền làm chủ thực chất, tích cực, chủ động và tự giác tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là yêu cầu khách quan, bảo đảm củng cố, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, bản chất nhân dân của Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thực tiễn phát huy vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và một số vấn đề đặt ra hiện nay

Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo mang tính chiến lược về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về công tác dân vận và phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát, tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân thành các văn bản pháp luật và chỉ đạo tổ chức thực hiện. Những nỗ lực đó vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ sở, để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, đa dạng hóa các hình thức, biện pháp để phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Cụ thể là:

Thứ nhất, Đảng dựa vào nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp ủy về công tác cán bộ, chủ trương, đường lối của Đảng. Nhân dân có quyền góp ý, kiến nghị đối với tổ chức đảng và chính quyền, phát hiện yếu kém, khuyết điểm của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên, nhất là những hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”; hoặc tổ chức để nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua hoạt động của các cấp, các ngành, đối thoại, tiếp công dân, tiếp nhận và kịp thời chỉ đạo xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo, giải quyết kiến nghị, phản ánh chính đáng của nhân dân, trong đó có những vấn đề liên quan đến đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

Các cuộc vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện hiệu quả, đặc biệt là việc lấy ý kiến của nhân dân đối với dự thảo văn kiện đại hội đảng bộ các cấp, dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng,... đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp trên cả nước. Bầu không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội được mở rộng, gắn với việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và những kết quả tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí đã tạo sự tin tưởng, đồng thuận trong xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Ngày 30-7-2020, Ban Dân vận Trung ương đã ban hành Kế hoạch số 21/KHBDVTW, “Về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân góp ý vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”; theo đó, Ban Dân vận Trung ương đã phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, tổ chức lấy ý kiến nhân dân, lấy ý kiến đại diện các tổ chức thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các nhân sĩ, trí thức, doanh nhân, chức sắc tôn giáo, đồng bào dân tộc thiểu số, người Việt Nam ở nước ngoài, đội ngũ công nhân, nông dân, người lao động, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi. Điều đó cho thấy sự công phu, bài bản, trí tuệ, dân chủ và cầu thị trong xây dựng văn kiện, nghị quyết của Đại hội, thể hiện được sự gắn bó mật thiết giữa “ý Đảng” với “lòng Dân”. Các góp ý của đại diện các tầng lớp nhân dân thể hiện sự tâm huyết, thẳng thắn, tinh thần trách nhiệm cao đối với Đảng, nhân dân, đất nước. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, thể hiện tinh thần cầu thị, dân chủ ngày càng cao của Đảng, phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân tham gia vào quá trình hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Điều này thể hiện được chiều sâu của sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng, phát huy tinh thần khối đại đoàn kết toàn dân tộc; qua đó, huy động trí tuệ toàn dân để xây dựng, hoàn thiện các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước.

Các hình thức góp ý với Đảng và giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng được chú trọng. Theo Kết luận số 54-KL/TW, ngày 9-5-2023, của Ban Bí thư, về “Tiếp tục thực hiện Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017 của Ban Bí thư về tiếp tục phát huy vai trò của Nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; ở nhiều nơi đã hình thành nền nếp, thường xuyên, công khai, minh bạch việc thông tin, tổ chức để nhân dân tham gia thảo luận xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phương hướng, nhiệm vụ công tác của địa phương, cơ quan, đơn vị; động viên nhân dân tham gia giám sát hoạt động của tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên.

Các tỉnh ủy, thành ủy đã tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy với nhân dân; việc xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và những kiến nghị, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân, doanh nghiệp được quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Nhiều vụ, việc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, các biểu hiện vi phạm đạo đức công vụ, văn hóa truyền thống được báo chí, phương tiện truyền thông xã hội phát hiện, phản ánh, lên án, đã giúp các cơ quan chức năng nhanh chóng vào cuộc kiểm tra, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Việc tổ chức lấy ý kiến nhận xét của nhân dân nơi cư trú (thôn, xóm, tổ dân phố) đối với cán bộ, đảng viên trước khi kiểm điểm cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên theo định kỳ được thực hiện nghiêm túc. Cùng với việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, việc lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng, Quốc hội, hội đồng nhân dân là cách thức hữu hiệu để nhân dân giám sát việc thực hiện trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.

Thông qua hoạt động của các tổ tự quản của nhân dân ở cơ sở, ban thanh tra nhân dân, các tổ giám sát cộng đồng là cách thức quan trọng để nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để thực hiện nội dung này, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp để ngày càng phát huy mạnh mẽ vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách trực tiếp, hiệu quả. Cùng với việc ban hành Hiến pháp năm 2013, nhiều quy định đã được sửa đổi, bổ sung để phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện nghiêm túc phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(7). Những quy định này góp phần tăng cơ hội để nhân dân góp ý xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giám sát đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức để tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Thứ hai, nhân dân gián tiếp tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua hoạt động của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và các đại biểu do nhân dân bầu; thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Nhân dân là người lựa chọn, bầu ra các đại biểu tham gia Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan dân cử. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 đã thành công tốt đẹp. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân để bầu ra những đại biểu ưu tú, tiêu biểu nhất đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, nhằm xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 có số lượng cử tri đi bầu lớn nhất từ trước đến nay, với 69.523.277 cử tri và tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu là 69.243.939 người (đạt 99,6%); cử tri cả nước đã thực hiện bầu được 3.721 đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh, 22.550 đại biểu hội đồng nhân dân cấp huyện, 239.788 đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã.

Thông qua hoạt động của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân gửi đến nghị trường Quốc hội, những vấn đề nhân dân quan tâm, bức xúc, những nội dung cần tháo gỡ về cơ chế, chính sách, pháp luật,... đã được bàn bạc, thảo luận công khai, dân chủ, xử lý phù hợp; qua đó, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội cũng như của các cơ quan dân cử.

Thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên cùng nhân dân tích cực tham gia giám sát các cơ quan, tổ chức đảng trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo đúng chức năng, quyền hạn của cơ quan, đơn vị đó; tham gia giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên có chức, có quyền, những người công tác ở lĩnh vực nhạy cảm, dễ nảy sinh vi phạm,...; qua đó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiều mặt trong công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát việc chấp hành và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng.

Công tác giám sát, phản biện xã hội được triển khai thực hiện đồng bộ trong toàn hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã tổ chức 16.770 đoàn giám sát, nghiên cứu, xem xét 19.264 văn bản, tham gia giám sát 28.031 cuộc; chủ trì tổ chức 5 hội nghị phản biện xã hội đối với các dự thảo luật quan trọng(9); góp ý 58 văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức 5.618 hội nghị phản biện xã hội, gửi 10.402 văn bản phản biện; tổ chức 520 hội nghị đối thoại phản biện trực tiếp. Trong năm 2022, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố ban hành 25.575 báo cáo tình hình nhân dân; tổ chức được 43.844 hội nghị lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân(10).

Một số vấn đề đặt ra trong phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng hiện nay

Trong những năm qua, mặc dù nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng và cả hệ thống chính trị trong thực hiện chủ trương dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện còn gặp phải những khó khăn, hạn chế nhất định; vì thế, chưa thực sự đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

Một số cấp ủy, chính quyền nhận thức về vấn đề này chưa thật sự sâu sắc và đầy đủ, thậm chí có nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, ngại tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, thiếu trách nhiệm trong giải quyết nguyện vọng chính đáng, bức xúc của người dân. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa xử lý kịp thời hoặc giải quyết không hợp lý những vụ, việc được nhân dân phản ánh, thậm chí còn có hiện tượng bao che. Ở nhiều nơi, việc giám sát, đóng góp ý kiến của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, ví dụ như có đặt hòm thư góp ý ở cơ quan, đơn vị, nhưng nhận được rất ít hoặc không nhận được ý kiến đóng góp, kiến nghị của nhân dân.

Việc tiếp nhận, xử lý ý kiến, kiến nghị của nhân dân ở một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính quyền chưa thấu tình, đạt lý, dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp và kéo dài, tạo “điểm nóng”, nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, thu hồi, sử dụng đất. Người dân còn có biểu hiện né tránh, e ngại trong việc góp ý, phê bình cán bộ, đảng viên, không dám tố giác hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí,...

Những hạn chế này đã được Đảng ta chỉ ra: “Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân ở một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả còn thấp, nhất là giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên”(11). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng nhận định: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng”; “Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả”(12).

Tiếp tục thực hiện hiệu quả chủ trương dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Đại hội XIII trong thời gian tới

Nhằm thực hiện hiệu quả chủ trương dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện nhiệm vụ chủ yếu sau:

Một là, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền làm chủ, ý thức trách nhiệm của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tuyên truyền sâu rộng các nội dung căn bản và cốt yếu của xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nội dung xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị. Làm rõ giá trị chuẩn mực đạo đức cách mạng của Đảng, gắn liền với học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng và toàn xã hội, nêu cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Làm cho nhân dân nắm được hoạt động của hệ thống tổ chức đảng, cũng như về năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; hiểu rõ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và yêu cầu, tiêu chuẩn của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.

Các cấp ủy, chính quyền cần tuyên truyền, vận động để mỗi người dân nhận thức rõ hơn về vai trò, trách nhiệm của mình trong tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Mỗi người dân cần nhận thức rõ khi thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng chính là giúp cho Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, cũng là để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, dân tộc và đất nước. Khi nhận thức rõ ràng và đầy đủ, mỗi người dân sẽ nâng cao được tinh thần tự giác của mình; đồng thời, các tổ chức đảng, chính quyền các cấp có thể vận động nhân dân tham gia đóng góp, xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ các thiết chế bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân một cách thuận lợi và hiệu quả hơn.

Hai là, tiếp tục khẳng định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng, phát triển, bảo vệ đất nước; thực hành dân chủ rộng rãi, công khai, trước hết là dân chủ trong Đảng. Phát huy dân chủ phải được coi là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để nhân dân tham gia hiệu quả vào công cuộc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, là cơ sở quan trọng để Đảng dựa vào nhân dân trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chủ động rà soát, bổ sung, cụ thể hóa những nội dung về phát huy dân chủ được quy định trong Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Đảng và trong hệ thống chính trị.

Ba là, xây dựng cơ chế phù hợp (cơ chế đối thoại, bàn bạc và lắng nghe ý kiến của nhân dân), tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng có hiệu quả. Đảng, Nhà nước luôn xác định “dân là gốc”, luôn tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng: “Phát huy vai trò, sự tham gia của nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, giữa các vùng, địa phương; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng””(13).

Từng bước hoàn thiện và đẩy mạnh thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, Quy chế về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các văn bản pháp luật liên quan đến quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện dân chủ ở cơ sở,... Cần phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong việc đánh giá, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên về thực hiện chức trách, nhiệm vụ, các nội dung liên quan đến phẩm chất, đạo đức, lối sống,...

Bốn là, Đảng, Nhà nước tiếp tục triển khai thực hiện tốt chủ trương, chính sách bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; nâng cao chất lượng đời sống mọi mặt cho người dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết tốt những vấn đề bức xúc hiện nay. Việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân sẽ góp phần nâng cao hơn nữa niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; từ đó, góp phần phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân, tăng tính hiệu quả, chất lượng đóng góp của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phải thực sự gần dân, sát dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, đóng vai trò quan trọng trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tích cực vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến, góp phần xây dựng, phát triển đất nước nhanh và bền vững trong bối cảnh mới.

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội chủ động, tích cực, sáng tạo hơn nữa trong phát huy vai trò của nhân dân, phát huy dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đặc biệt là vai trò của nhân dân tham gia giám sát các cơ quan, tổ chức đảng, hệ thống chính trị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; tăng cường giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Tập trung giám sát, phản biện xã hội trong quá trình xây dựng chủ trương, nghị quyết, đường lối của Đảng; ban hành chính sách, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, bảo đảm sát thực tiễn, thể hiện sự hòa hợp, gắn bó giữa “ý Đảng” với “lòng Dân”, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội.

Sáu là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt đủ phẩm chất, năng lực, uy tín; thực sự trọng dân, gần dân, hiểu dân; có trách nhiệm và biết phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân, thực sự hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng cần kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tạo cơ sở chính trị - pháp lý và niềm tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, cùng nhân dân xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng nặng nề, phức tạp hơn trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

 

 

NVG40 - VỤ VIỆC Ở ĐĂK LĂK LÀ DO MÂU THUẪN SẮC TỘC, TÔN GIÁO?

 

Mới đây, trên trang BBC New Tiếng Việt đã đăng trích dẫn bài viết của anh dân chủ Huy Đức Osin cho rằng, vụ việc xảy ra ở Đăk Lăk vừa qua mang màu sắc dân tộc, tôn giáo; “ẩn ức của những người cảm thấy thua thiệt trong mọi phương diện, bị dồn nén trong không chỉ một thế hệ”.

Với cách giải thích lập lờ như vậy, Huy Đức đã đẩy lỗi về phía chính quyền, cho rằng, nguồn gốc của vụ việc là do “con giun xéo lắm cũng quằn”, giọt nước làm tràn ly, từ những chính sách về tôn giáo, dân tộc của chính quyền.

Nhưng xem lại vụ việc sáng ngày 11/6, chúng ta thấy những lập luận trên là không có căn cứ. Vụ dùng súng tấn công và trụ sở Công an ở Đắk Lắk là vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, làm chết nhiều người, phá hỏng nhiều tài sản của nhà nước và của nhân dân, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh trật tự, tính mạng, sức khỏe của người dân. Đây là vụ phạm tội có tổ chức, có vũ trang và rất có thể có sự giật dây từ các tổ chức phản động lưu vong...; hành vi gây án manh động, thủ đoạn tàn độc, gặp ai giết người nấy, bất chấp thân phận của nạn nhân.

Ngoài các tình tiết giết người bằng súng đạn và dao quắm thì nhóm tội phạm còn dùng vũ lực giết người, cướp, phá hủy tài sản (xe bán tải và xe tải chở hàng của người dân) và bắt con tin để làm lá bùa hộ mạng trên đường trốn chạy.

Thử hỏi, nếu chỉ là mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền, liệu những kẻ tấn công có hành vi tàn ác với chính người đồng bào dân tộc của mình như vậy không? Liệu người dân có hợp tác với chính quyền hết mình trong bắt giữ các đối tượng, thậm chí còn nấu ăn, hỗ trợ đồ ăn nước uống cho các chiến sĩ công an trong quá trình bắt giữ như vậy hay không?

Rõ ràng, đây chỉ là chiêu bài nhằm làm thay đổi bản chất vụ việc, hòng thoát tội cho những kẻ khủng bố vừa qua mà thôi.

 

NVE40- CẢNH BÁO “HỘI THÁNH ĐỨC CHÚA TRỜI MẸ”

 

            Gần đây “Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ” tiếp tục hoạt động trở lại một số địa phương như Vĩnh Phúc, Quảng Nam, Thanh Hóa. Hoạt động của tổ chức này với nhiều chiêu thức và thủ đoạn tinh vi hơn, tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự, gây nhiều hệ lụy cho người tham gia và gia đình những người có người thân mù quáng tin, theo.

            “Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ” tên chính thức và đầy đủ là “Hội thánh của Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Tin lành Thế giới”, có nguồn gốc từ Hàn Quốc, du nhập vào Việt Nam từ năm 2001. Bằng nhiều cách thức, Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ đã nhen nhóm và nhanh chóng phát triển ở nhiều địa phương trong cả nước. Hiện nay, giáo phái này chưa được công nhận về mặt tổ chức tại Việt Nam; giáo lý hoạt động mang tính chất tà đạo, có biểu hiện mê tín dị đoan, lợi dụng giáo lý để trục lợi cá nhân, trái với văn hóa truyền thống và thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.

            Những người tin theo Hội thánh này thường ở độ tuổi từ 18 đến 50, phần nhiều là sinh viên, phụ nữ nội trợ. Các đối tượng cầm đầu thường lựa chọn mục tiêu là những người gặp khó khăn, bất trắc trong cuộc sống, ốm đau, làm ăn thua lỗ để tiếp cận, dụ dỗ lôi kéo tham gia. Mặc dù chúng rao giảng lấy giáo lý cơ bản từ kinh thánh, nhưng biến tướng sai lệch với nhiều quan điểm cực đoan như chỉ xem trọng bản thân, coi thường người thân, gia đình. Không ít gia đình có người thân tham gia tổ chức này đã u mê đập bỏ bát hương, bàn thờ, không thờ cúng tổ tiên, ông bà; bỏ chồng con, bỏ bê công việc, học hành, mang tiền đi phụng sự tổ chức, gây chia rẽ và mâu thuẫn trong gia đình, dòng họ…Để có thể lôi kéo được hội viên tham gia, các đối tượng thường núp bóng dưới nhiều hình thức như trung tâm từ thiện, nhân đạo trá hình, giới thiệu khóa học phát triển tư duy, các buổi hội thảo “làm giàu”, bán hàng online, kinh doanh các mặt hàng thiết bị điện, đồ gia dụng, sản phẩm sinh hoạt gia đình, … với nhiều thủ đoạn mới như giao giảng, nhóm họp trên không gian mạng qua Zoom, Zalo, facebook, các điểm sinh hoạt tại các nơi công cộng, quán nước, quán cà phê hoặc nhà riêng, nhà trọ…

            Phương thức hoạt động của Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ tương tự như mô hình đa cấp, được chia thành nhiều nhóm nhỏ, các điểm nhóm sinh hoạt riêng rẽ. Các đối tượng ban đầu chỉ là lân la làm quen, khéo léo tiếp cận tìm hiểu gia cảnh của từng người, rồi động viên chia sẻ, hướng dẫn những điều cần thiết trong cuộc sống, sau đó sẽ tìm cách thao túng tâm lý, ép người tham gia bằng sự sợ hãi bởi những lời rao giảng lệch chuẩn, gieo vào tín đồ niềm tin ngày tận thế, về sự phán xét của Đức chúa trời nếu không nghe, tin theo, về những rủi ro, những điều siêu nhiên, về sứ mệnh cao cả của hội viên để cứu rỗi linh hồn, về cuộc sống an nhàn, hạnh phúc khi theo Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ …

            Nguy hiểm hơn, Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ còn tìm mọi cách để lôi kéo hội viên là những học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn, đã ảnh hưởng đến việc học tập…

            Trước tình hình hoạt động phức tạp của Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ, thời gian qua, lực lượng Công an tại nhiều địa phương, trong đó có Công an Thanh Hóa đã triển khai nhiều biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động đạo trái pháp luật của tổ chức này; đồng thời phát hiện, bắt, xử lý nghiêm các điểm nhóm của Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ, thu giữ nhiều tài liệu, tang vật có liên quan đến việc truyền đạo, sinh hoạt đạo trái pháp luật.

            Với nhiều hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu tới người tin theo cũng như gia đình của họ và xã hội nên hoạt động của các điểm nhóm Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ, dù bất kỳ dưới hình thức nào cũng cần phải được lên án và kiên quyết xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Do đó, người dân cần hết sức tỉnh táo khi tiếp nhận các thông tin từ thành viên Hội thánh này, tránh bị lợi dụng, gây nhiều hệ lụy cho bản thân, gia đình và xã hội./.

 

NVE40-VIỆT NAM KIÊN QUYẾT PHẢN ĐỐI, BÁC BỎ NHỮNG THÔNG TIN KHÔNG CHÍNH XÁC VỀ TỰ DO TÔN GIÁO

 

            Hiện nay, các thế lực thù địch đưa ra nhiều ý kiến mang tính phiến diện, cực đoan, thể hiện cái nhìn thiếu khách quan, thậm chí luận điệu xuyên tạc về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Việt Nam được diễn giải theo mưu đồ chính trị nhằm phủ nhận sự đổi mới chính sách về tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bài viết góp phần nhận diện những luận điệu xuyên tạc về tự do tôn giáo ở Việt Nam và luận cứ bác bỏ những luận điệu này.

            Trong các báo cáo thường niên của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ và Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, từ góc nhìn thiên lệch và thiếu khách quan, thường đưa ra nhiều nhận định chủ quan rằng “chủ nghĩa vô thần chống tôn giáo”, quyền tự do tôn giáo bị vi phạm nghiêm trọng. Trong Báo cáo thường niên mới nhất của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế vẫn cho rằng tình trạng vi phạm tự do đức tin và thực hành tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam chưa được cải thiện, rằng việc thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là trái với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế và vi phạm có hệ thống tự do tôn giáo.

            Đánh giá khách quan cần phải thấy rằng, Nhà nước Việt Nam nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần chính đáng của con người. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong Chương trình hành động của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh chính sách “tín ngưỡng tự do và Lương, Giáo đoàn kết”, coi đó là một trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam. Từ đó đến nay, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền của các tín đồ được tự do thờ cúng và thực hành tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách này đã được thể chế hóa bằng pháp luật. Điều 70 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”, “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 52 Hiến pháp). Điều 24 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật…”.

            Nhà nước không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo không chỉ được thể hiện trong Hiến pháp mà còn được thể hiện trên mọi lĩnh vực như quyền bầu cử và ứng cử, trong các quan hệ dân sự, lao động, kết hôn cũng được quy định rõ trong Bộ luật Dân sự và nhiều văn bản pháp quy khác như Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Đất đai, Luật Giáo dục... Các tổ chức tôn giáo hợp pháp được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, xuất bản kinh sách, sửa chữa và xây dựng cơ sở thờ tự theo quy định của pháp luật. Nhà nước chủ trương giao đất cho cộng đồng tín đồ sử dụng lâu dài và đất đai của tôn giáo không phải chịu thuế như các loại đất khác. Luật pháp Việt Nam cũng nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, cưỡng ép dân theo đạo, bỏ đạo hoặc phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo (theo quy định của Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo) và quy định các hình phạt thích đáng đối với các tội danh này (theo Bộ Luật Hình sự). Các quy định pháp lý trên hoàn toàn phù hợp với tinh thần và nội dung về tự do tín ngưỡng và tôn giáo đã được nêu trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo, được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 18-11-2016. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, đáp ứng đầy đủ hơn nguyện vọng và nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh của nhân dân và bảo đảm sự tương thích với các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

            Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng. Khoảng hơn 80% người dân Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Hiện Nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo, với trên 26,5 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước, hơn 54 nghìn chức sắc, trên 135 nghìn chức việc và gần 30 nghìn cơ sở thờ tự. Nhà nước đang xem xét để công nhận một số tổ chức, hệ phái tôn giáo khác. Mọi sinh hoạt tôn giáo cá nhân của tín đồ, chức sắc thuộc các hệ phái được thực hiện bình thường. Ngoài ra, còn hàng chục triệu người tin theo các tín ngưỡng bản địa như tín ngưỡng dân gian của người Kinh, tín ngưỡng nguyên thủy của các dân tộc thiểu số. Các chức sắc tôn giáo cũng có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân như mọi công dân khác theo quy định của Hiến pháp. Hiện có 5 đại biểu Quốc hội Việt Nam là chức sắc tôn giáo. Các tôn giáo ở Việt Nam có quyền và được Nhà nước tạo điều kiện mở trường và cơ sở đào tạo chức sắc, xuất bản kinh sách, tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, nhân đạo... Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam được Nhà nước tôn trọng, bảo đảm trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Chính phủ đã có nhiều chính sách nhằm bảo đảm hoạt động bình thường về tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số…

            Các tôn giáo ở Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi. Giáo hội Công giáo Việt Nam có mối quan hệ về tổ chức và là một bộ phận của Giáo hội Công giáo hoàn vũ dưới sự lãnh đạo của Giáo triều Va-ti-căng. Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng có mối quan hệ chặt chẽ với Phật giáo thế giới và Phật giáo các nước láng giềng như Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc... Các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện để giao lưu quốc tế và đi đào tạo ở nước ngoài, tham dự hội nghị, hành hương, chữa bệnh, thăm thân, du lịch… Rất nhiều cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài cũng đã vào Việt Nam để hoạt động tôn giáo và giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam: Đoàn Toà thánh Va-ti-căng (hằng năm đến Việt Nam để làm việc về những vấn đề liên quan đến Giáo hội Công giáo), Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, Đoàn Hội đồng Giám mục Mỹ… Bên cạnh đó, đoàn của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế đã tới Việt Nam và có nhiều cuộc tiếp xúc với đại diện các tôn giáo của Việt Nam.

            Báo cáo Tình hình tự do tôn giáo thế giới năm 2022 của Ủy ban Tự do Tôn giáo Mỹ và Báo cáo tình hình tự do tôn giáo quốc tế 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn đưa ra những nhận định thiếu khách quan, không chính xác dựa trên những thông tin chưa được kiểm chứng về tình hình thực tế tại Việt Nam. Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là rất rõ ràng. Việt Nam kiên quyết phản đối với những thông tin thiếu khách quan, không chính xác và luôn sẵn sàng trao đổi với phía Mỹ về những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau về những vấn đề còn khác biệt, qua đó đóng góp vào việc thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ./.

 

NVE40-PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ TÌNH HÌNH BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM

 

            Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, bên bờ Biển Đông. Biển, đảo nước ta trong vùng Biển Đông luôn là mục tiêu trọng yếu, mà các thế lực xâm lược muốn chiếm giữ để thực hiện mưu đồ bành trướng bá quyền. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách xuyên tạc, chống phá chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Thế nhưng, trên các mạng xã hội như Facebook, YouTube, TikTok, Twitter,… có nhiều tổ chức, hội, nhóm chống đối, của những người tự xưng là “nhà báo”, “nhà dân chủ”, “công dân yêu nước”,... đưa ra các thông tin xấu, độc, luận điệu sai trái, xuyên tạc về đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Cùng với đó các tổ chức phản động lưu vong như: “Việt Tân”, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, “Triều Đại Việt”, “Tập hợp dân chủ đa nguyên”, hội nhóm trá hình trong nước như: “Lập Quyền Dân”, “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Tập hợp Quốc dân Việt”… Các trang mạng “Tin tức hàng ngày”, “Báo tiếng dân”, “Luật khoa tạp chí”, “Thời báo”, “Chân trời mới”; các trang báo nước ngoài: “BBC”, “RFA”, “VOA”, RFI” và các tài khoản mạng xã hội như: “Thanh Hieu Bui”, “Nguyễn Văn Đài”, “Phạm Chí Dũng”,… đã phát tán bài viết, tài liệu, hình ảnh, video xuyên tạc tình hình, diễn biến phức tạp trên Biển Đông.

            Chúng xuyên tạc, đăng tải nhiều bài đưa ra các luận điệu xuyên tạc như: “Đảng, Nhà nước Việt Nam yếu hèn không dám sử dụng vũ lực”, “lãnh đạo Việt Nam vẫn im tiếng trong căng thẳng Bãi Tư Chính với Trung Quốc”, “Chính phủ Việt Nam luôn tìm cách bịt miệng báo chí”,… để kêu gọi biểu tình, bạo loạn lật đổ. Chúng lợi dụng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc để kích động người dân tạo nên các phong trào “bài Trung”, “thoát Trung” hay “thân Mỹ”, “liên minh quân sự”…với các nước lớn. Chúng còn đưa ra luận điệu “đòi” đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

            Đấu tranh với luận điệu sai trái, xuyên tạc

           Trước âm mưu tung thông tin xấu, độc với các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch, chúng ta cần nhận diện rõ và phê phán “luận điệu muốn giữ vững độc lập, chủ quyền biển, đảo hiện nay thì phải “chống Trung”, “bài Trung” triệt để, phải “tẩy chay khách Trung Quốc”, “tẩy chay hàng hóa Trung Quốc”.

            Từ khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD981, trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ta (năm 2014) và sau sự cố môi trường nghiêm trọng do Công ty Formosa, Hà Tĩnh gây ra, một số kẻ đóng vai “trí thức”, “học giả”,“người yêu nước”, “nhà báo”, “nhà dân chủ”,…đưa ra kiến nghị Đảng ta thay đổi Cương lĩnh chính trị, đường lối đối ngoại. Rằng, cần phải quyết liệt chống Trung Quốc, phải tẩy chay hàng hóa Trung Quốc, tẩy chay người Trung Quốc. Đây là các luận điệu, quan điểm sai trái, thâm độc hết sức nguy hiểm.

            Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông liền sông, biển liền biển và có nhiều điểm tương đồng từ văn hóa, lịch sử cho đến thể chế chính trị hiện nay. Quan hệ giữa hai nước tuy có trải qua nhiều thăng trầm nhưng tình hữu nghị, hợp tác tốt đẹp giữa nhân dân hai nước không ngừng được bồi đắp qua nhiều thế hệ. Những “kiến nghị”, “lời kêu gọi” với mục đích “bài Trung”, “thoát Trung”... được đăng tải trên internet và việc đập phá, hủy hoại tài sản, gây rối của những đối tượng quá khích ở Bình Dương, Vũng Áng (Hà Tĩnh) năm 2014; tại Bình Thuận năm 2018... đã làm xấu đi hình ảnh của một Việt Nam hòa bình và ổn định chính trị. Đây là những tư tưởng và hành động gây kích động hận thù dân tộc, cần hết sức đấu tranh để loại bỏ.

            Biển Đông là một phần quan trọng trong toàn bộ mối quan hệ Việt - Trung. Vì thế, chính sách của Việt Nam luôn nhất quán. Chúng ta lên án các hành vi xâm lấn trái phép của Trung Quốc, phản đối công khai, rộng rãi và vận động dư luận quốc tế, sự ủng hộ của các nước, kiên quyết không lùi bước, phát huy thế “chính nghĩa” của mình, đồng thời, tăng cường trao đổi, tích cực đối thoại song phương giữa hai Đảng, hai Nhà nước.

            Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hiện nay, phải luôn tự chủ, độc lập, tự cường, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, chứ không thể chỉ dựa vào việc liên minh quân sự với một cường quốc. Vì vậy, sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 đã nêu rõ chủ trương: “Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.

            Những bất đồng, tranh chấp ở Biển Đông hiện nay là vấn đề khó khăn, phức tạp, lâu dài, không thể giải quyết một sớm, một chiều. Không phải cứ có cường quốc “bảo vệ, che chở” thì các nước đồng minh sẽ giữ được chủ quyền lãnh thổ.

            Quan điểm dựa vào nước khác để bảo vệ chủ quyền cũng hoàn toàn trái ngược với truyền thống đấu tranh của dân tộc ta. Trải qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc, rồi “Thắng Tống, bình Nguyên, diệt Minh, phá Thanh”, đánh thắng các chủ nghĩa thực dân, đế quốc hùng mạnh nhất, Việt Nam đã đi vào lịch sử thế giới với tư cách một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục, luôn giành chiến thắng với phương châm độc lập, tự chủ, luôn tự lực, tự cường. Lịch sử thế kỷ XX đã chứng minh, nền ngoại giao Việt Nam tạo thế cân bằng về lợi ích giữa các nước lớn và không nghiêng hẳn về bên nào. Việc xây dựng mối quan hệ quốc tế thời gian qua của nước ta cho thấy nước ta đang xây dựng nhiều đối tác để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo.

            Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam là vấn đề hết sức thiêng liêng, nhưng cũng hết sức khó khăn, phức tạp và lâu dài, không thể nóng vội, chủ quan. Hoàng Sa và Trường Sa luôn trong trái tim của mỗi người Việt Nam. Trước sau như một, Việt Nam kiên quyết và kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích của đất nước; kiên trì quan hệ hữu nghị với Chính phủ và nhân dân Trung Quốc, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định để phát triển. Việt Nam kiên trì chủ trương giải quyết những bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982); thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC).

Có thể nhận thấy, những căng thẳng trên biển Đông đã trở thành “miếng mồi béo bở” để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc, chống phá sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo; từ đó chia rẽ mối quan hệ mật thiết của Đảng với nhân dân; hạ vệ uy tín của Đảng, Nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Đó là những âm mưu thâm độc, thủ đoạn tinh vi nên cần phải có những cách thức để đấu tranh phản bác có hiệu quả.

 

 

NVE40-HỒ CHÍ MINH - NHÀ BÁO LỖI LẠC, NHÀ SÁNG LẬP VÀ NGƯỜI THẦY VĨ ĐẠI CỦA BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 

            Không chỉ là lãnh tụ chính trị kiệt xuất, danh nhân văn hóa của nhân loại, Hồ Chí Minh còn là một nhà báo lỗi lạc, đồng thời là nhà sáng lập, người thầy của báo chí cách mạng Việt Nam. Với Người, làm báo là làm cách mạng và để làm cách mạng.

            Vũ khí tư tưởng sắc bén

            Trong hành trình tìm đường cứu nước, bằng trí thông minh, khát vọng cháy bỏng và lòng yêu nước thương dân, Nguyễn Ái Quốc nhận thức sâu sắc rằng, muốn giải phóng dân tộc phải đánh đuổi ngoại xâm, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến. Để làm được điều đó, trước hết phải thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân.

            Ngay khi đặt chân đến châu Âu, Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với nền báo chí phát triển. Và Người nhận ra rằng, thông tin báo chí tác động vào tư tưởng, tình cảm, từ đó làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của công chúng, thế nên phải nắm lấy báo chí, sử dụng báo chí làm vũ khí tư tưởng. Vì vậy, bên cạnh việc tự học tiếng Pháp, Người đã học viết báo. Những ngày đầu, Nguyễn Ái Quốc được Jean Lauren Frederick Longuet - cháu ngoại của Karl Marx, nhiệt tình chỉ dẫn.

            Năm 1921, tại Paris, Nguyễn Ái Quốc cùng một số đồng chí người Algeria, Tuynisia, Maroc... thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Đầu tháng 2-1922, Nguyễn Ái Quốc và Ban Thường vụ Hội thống nhất cho ra đời một ấn phẩm báo chí bằng tiếng Pháp. Ngày 1-4-1922, báo Le Paria (Người cùng khổ) xuất bản số đầu với tôn chỉ: “Báo Le Paria là vũ khí chiến đấu với sứ mạng rõ ràng: Giải phóng con người”. Nguyễn Ái Quốc vừa là chủ bút, vừa là biên tập, phóng viên, vừa lo bán báo.

            Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, tờ Le Paria trở thành công cụ sắc bén vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột của bè lũ thực dân, đế quốc, đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, thúc đẩy tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa. Người đã tìm cách chuyển báo Le Paria về Việt Nam để khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta.

            Sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam

            Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người tổ chức huấn luyện cán bộ cách mạng, thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Cơ quan ngôn luận của Hội là tờ Thanh Niên, xuất bản số đầu ngày 21-6-1925. Đây là tờ báo cách mạng Việt Nam đầu tiên do Người sáng lập, chỉ đạo. Tháng 12-1926, Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo ra báo Công nông, tờ báo của giai cấp công nhân, nông dân Việt Nam. Tháng 2-1927, Người sáng lập báo Lính kách mệnh.

            Những tờ báo công khai và bí mật do Nguyễn Ái Quốc thành lập thời kỳ này tập trung tuyên truyền lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm chuẩn bị cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự ra đời một Đảng Cộng sản kiểu mới có đủ khả năng, bản lĩnh để tập hợp lực lượng cách mạng, đánh đổ chế độ thực dân - phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc...

            Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, Nguyễn Ái Quốc sáng lập tạp chí Đỏ (số đầu tiên ra ngày 5-8-1930), đồng thời là người chỉ đạo và cộng tác viên thân thiết của các tờ Búa liềm, Tranh đấu... với nhiều bút danh khác nhau. Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người chỉ đạo tổ chức Hội nghị Trung ương 8, thành lập Mặt trận Việt Minh và sáng lập tờ Việt Nam Độc lập (số đầu tiên xuất bản ngày 1-8-1941). Năm 1942, Người chỉ đạo thành lập báo Cứu Quốc.

            Sau khi Tổng khởi nghĩa thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Nguyễn Ái Quốc - lúc này là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã ký chỉ thị thành lập Đài phát thanh Quốc gia (nay là Đài Tiếng nói Việt Nam) ngày 7-9-1945, thành lập Hãng tin Quốc gia (nay là Thông tấn xã Việt Nam) ngày 15-9-1945, báo Sự Thật (nay là báo Nhân Dân) ngày 11-3-1951.

            Người thầy lỗi lạc

            Không chỉ là người sáng lập, Hồ Chí Minh còn là người thầy lỗi lạc của báo chí cách mạng Việt Nam. Bằng kinh nghiệm và kiến thức của mình, Bác tận tình chỉ dẫn nghiệp vụ cho những người làm báo. Ngày 17-8-1952, nói chuyện với các cán bộ báo chí ở Trường chỉnh Đảng Trung ương tại Việt Bắc, Người tổng kết 4 nguyên lý cơ bản của nghề báo: “Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?”, đồng thời căn dặn: “Viết phải thiết thực, “nói có sách, mách có chứng’”, tức là nói cái việc ấy ở đâu, thế nào, ngày nào, nó sinh ra thế nào, phát triển thế nào, kết quả thế nào?”.

            Phát biểu tại Đại hội lần thứ II của Hội Nhà báo Việt Nam (tháng 4-1959), Bác nêu rõ: Báo chí ta không phải để phục vụ cho một số ít người xem, mà để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, cho nên phải có tính chất quần chúng và tinh thần chiến đấu".

            Tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam (tháng 9-1962), Người đã chỉ ra khuyết điểm của báo chí: “Bài báo thường quá dài, “dây cà ra dây muống”, không phù hợp với trình độ và thời gian của quần chúng. Thường nói một chiều và đôi khi thổi phồng thành tích, mà ít hoặc không nói đúng mức đến khó khăn và khuyết điểm của ta. Đưa tin tức hấp tấp, nhiều khi thiếu thận trọng...”, “Khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá nhiều và lắm khi dùng không đúng”.

            Cũng tại Đại hội này, Người nhắn nhủ: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Đặc biệt, Người luôn căn dặn các nhà báo phải trung thực, coi đó như một tiêu chuẩn đạo đức của người làm báo: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết chớ nói, chớ viết càn”. Người yêu cầu người làm báo phải lấy phê bình và tự phê bình để rèn luyện và tiến bộ. Trong đó, điều quan trọng nhất là lắng nghe ý kiến phê bình của quần chúng: “Các nhà báo cũng cần khuyến khích quần chúng góp ý kiến và phê bình báo mình để tiến bộ mãi”...

            Đặc biệt, nói về vai trò quan trọng của báo chí cách mạng, Người khẳng định: “Tờ báo Đảng như những lớp huấn luyện giản đơn, thiết thực và rộng khắp. Nó dạy bảo chúng ta những điều cần biết làm về tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và công tác. Hằng ngày nó giúp nâng cao trình độ chính trị và năng suất công tác của chúng ta. Nếu ai cắm đầu làm việc mà không xem, không nghiên cứu báo Đảng thì khác nào nhắm mắt đi đêm, nhất định sẽ lúng túng, vấp váp, hỏng việc. Vì vậy, cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng, toàn thể Đảng viên và cốt cán cần phải xem báo Đảng”...

            Đã 98 năm kể từ ngày tờ báo cách mạng đầu tiên ra đời, những tư tưởng về báo chí và di sản báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn là “kim chỉ nam” soi đường cho báo chí cách mạng Việt Nam tiếp tục đóng góp hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, xứng đáng với vai trò xung kích trên mặt trận văn hóa, tư tưởng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng, giao phó.

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...