Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta”. Thi đua yêu nước, đó là nội hàm có sức thuyết phục
lan tỏa thành năng lượng tinh thần, niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
Trong
thời điểm giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra gay go ác
liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948) như một
lời hiệu triệu, được sự hưởng ứng đồng lòng của toàn dân, toàn quân. Người nói
rất rõ, rất cụ thể mà vẫn có sức khái quát, tạo ra sức mạnh cộng hưởng: “Mỗi
người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều
cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính
trị, văn hóa”.
Từ
lời kêu gọi ấy, ai cũng thấy mình trong đó với sự gắn kết cộng đồng, khơi dậy sức
mạnh truyền thống quý báu của dân tộc với một trữ lượng tinh thần lớn lao. Ngay
với các cháu thiếu nhi, Bác cũng có cách nói riêng động viên thân tình ấm áp
trong những câu thơ gửi cho các cháu dịp tết Trung thu năm 1952: “Mong các cháu
cố gắng/ Thi đua học và hành/ Tuổi nhỏ làm việc nhỏ/ Tùy theo sức của mình”.
Trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước với nhiều khẩu hiệu. Đó cũng
là quyết tâm, ý chí được đúc kết thành những lời kêu gọi như một khúc ca, một
tiếng lòng tha thiết, đồng vọng, dễ nhớ, dễ thuộc, cứ ngân vang như một điệp
khúc giục giã lòng người: “Ruộng rẫy là chiến trường/ Cuốc cày là vũ khí/ Nhà
nông là chiến sĩ/ Hậu phương thi đua với tiền phương”.
Cho
đến nay, trong tôi vẫn còn âm vang nhịp điệu thiết tha như một lời reo vui, như
khúc hoan ca khẳng định: “Người người thi đua/ Nhà nhà thi đua/ Ngành ngành thi
đua/ Ta nhất định thắng/ Địch nhất định thua”.
Vì
thế, một sự cộng hưởng kết nối mà thi đua đã tạo ra một làn sóng tự nguyện dâng
lên lòng tự hào, tôn vinh dân tộc với một trầm tích lịch sử ngàn đời, với mạch
nguồn văn hóa như một cái neo định vị một thế đứng dân tộc, một cốt cách làm
người.
Thi
đua yêu nước, điều đó chứng tỏ đã rạng rỡ như Bác Hồ đúc kết: “Thi đua là yêu
nước, yêu nước thì phải thi đua, những người thi đua là những người yêu nước nhất”.
Trong
thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam (1954-1975),
các phong trào thi đua yêu nước tiếp tục phát triển trên các lĩnh vực, các
ngành, các giới một cách toàn diện.
Các
phong trào đó được mang tên gắn với các địa phương tiên tiến thành biểu tượng
có sức thuyết phục, thành một ý thức tự nguyện và nhân rộng thành những nhận thức
mới, hành động mới. Đó là những điển hình có sức lan tỏa, khơi dậy sức mạnh lớn
lao như: phong trào “Gió Đại Phong” trong nông nghiệp, “Sóng Duyên Hải” trong
công nghiệp, “Trống Bắc Lý” trong giáo dục.
Đó
như là những điệu kèn xung trận náo nức lòng người với những hồ hởi tươi mới, tạo
đà, tạo nhịp thành một bản đại giao hưởng dưới bàn tay tài hoa bắt nhịp của nhạc
trưởng là Bác Hồ kính yêu. Rồi những phong trào từ con số cụ thể rất thiết thực
cũng được gắn với những quyết tâm ý chí như phong trào “Ba nhất” trong quân đội,
“Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” trong thanh niên, “Ba đảm đang” trong phụ nữ;
phong trào “Dũng sĩ diệt Mỹ” ở tiền tuyến miền Nam, “Một người làm việc bằng
hai vì miền Nam ruột thịt” ở hậu phương miền Bắc.
Trong
những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chúng ta làm sao quên được
đồng bào Khu 4 đã lan truyền câu nói: “Xe chưa qua, nhà không tiếc”. Chỉ đơn giản
thế thôi mà chứa đựng trong đó cả một tấm lòng yêu nước lớn lao, những sự hy
sinh lớn lao, những tự nguyện quên mình lớn lao.
Tôi
còn nhớ những năm tháng đi học dưới những đường hào giao thông, đầu đội mũ rơm,
lán học được đắp bằng lũy đất bao quanh vẫn luôn nghe vang vọng bản tin “Tiếng
loa chống Mỹ” lan truyền bởi giọng đọc từ chiếc loa được gõ bằng tôn thô sơ với
những thông tin thời sự kịp thời, những gương người tốt, việc tốt điển hình.
Và
bên cạnh những cuốn sách giáo khoa, chúng tôi lại có thêm những cuốn sách khổ
nhỏ trong tủ sách “Người tốt việc tốt” của nhà trường như: “Vì nước vì dân”,
“Dũng cảm đảm đang”, “Việc nhỏ nghĩa lớn”… Sau này, tôi mới biết đó là sáng kiến
của Bác Hồ chỉ đạo việc xuất bản sách “Người tốt việc tốt” để mọi người có thể
học tập và làm theo.
Trong
ngôi nhà sàn của Bác tại Phủ Chủ tịch, trên bàn làm việc, trong phòng họp và
phòng ngủ của Người đều có sách “Người tốt việc tốt”. Trong nhiều năm, Bác đã
theo dõi những việc làm tốt hằng ngày của những con người bình thường để gửi tặng
huy hiệu. Và, với nhiều thế hệ, tấm huy hiệu mang hình Bác Hồ là một tặng thưởng
vô giá được đính trên ngực áo - nơi có trái tim của mình đập rung lên với những
tần số từ tình cảm lớn lao, ân tình chu đáo và thắm thiết thân tình của Bác Hồ
kính yêu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét