Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 25 tháng 9, 2023

NVH40 - Sự vận dụng tinh thần “ngoại giao cây tre” trong đối ngoại đảng

 

Đối ngoại đảng là một trong ba mũi giáp công của đối ngoại Việt Nam (đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân). Thành tựu của quan hệ đối ngoại đảng trong hơn 36 năm đổi mới, nhất là thời gian gần đây, là kết quả của quá trình đổi mới tư duy về đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, trên cơ sở vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế, phù hợp với điều kiện hiện nay.

Nghị quyết số 13/NQ-TW, ngày 20-5-1988, của Bộ Chính trị khoá VI, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới” khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế”. Nghị quyết số 13/NQ-TW là sự tiếp thu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về việc bảo đảm lợi ích tối cao của đất nước, đánh dấu bước chuyển chiến lược về tư duy đối ngoại, đặc biệt là tư duy về lợi ích, mục tiêu và nhiệm vụ đối ngoại của Việt Nam nói chung, trong đó có đối ngoại đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá IX (tháng 7-2003) nêu ra nhận thức mới về “đối tượng” và “đối tác” và xác định nguyên tắc, phương thức đối ngoại với tất cả các nước trong khu vực và thế giới, không phân biệt chế độ và trình độ phát triển. Theo đó, việc xác định đối tượng, đối tác tuỳ theo tình huống, hoàn cảnh, thời điểm cụ thể một cách biện chứng, linh hoạt, không dễ dãi và cũng không cứng nhắc, sơ hở .

Đại hội XI của Đảng (năm 2011) nhấn mạnh các yêu cầu: “Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương ở khu vực và thế giới". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại; mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển".

Kết luận số 73-KL/TW, ngày 8-2-2012, của Bộ Chính trị khoá XI về “Tăng cường quan hệ đối ngoại của Đảng trong tình hình mới” là dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển nhận thức, tư duy lý luận của Đảng về mở rộng các mối quan hệ đối ngoại với các chính đảng và các diễn đàn đa phương chính đảng. Kết luận xác định tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả quan hệ đối ngoại của Đảng để tạo nền tảng chính trị cho quan hệ ổn định, bền vững giữa Việt Nam và các nước, tiếp tục tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân thế giới, các chính đảng, tổ chức, chính giới các nước và bạn bè quốc tế với sự nghiệp cách mạng của Đảng, tạo thế chủ động trong việc xử lý các vấn đề khu vực và quốc tế, thực hiện lợi ích quốc gia, dân tộc.

Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị khoá XI, “Về hội nhập quốc tế” nêu định hướng: “Chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, tích cực và nâng cao hiệu quả tham gia các diễn đàn các chính đảng”; theo đó, Đảng ta là người hoạch định và lãnh đạo quá trình triển khai đường lối, chính sách đối ngoại hội nhập, đồng thời bản thân Đảng cũng là một chủ thể tích cực, chủ động hội nhập vào khu vực và thế giới.

Đại hội XII của Đảng (năm 2016), một lần nữa Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu “mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”; “phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân".

Năm 2019, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW, “Về tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại của Đảng trong tình hình mới”. Văn bản chỉ đạo công tác đối ngoại rất quan trọng này của Đảng xác định mục tiêu của đối ngoại đảng nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế.

Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh yêu cầu “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”; “kết hợp chặt chẽ, hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Tinh thần đối ngoại đảng trên tiếp tục được thể hiện trong Nghị quyết số 34-NQ/TW, ngày 9-1-2023, của Bộ Chính trị, về “Một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng”...

Như vậy, việc đổi mới tư duy, nhận thức và thế giới quan về đối ngoại của Đảng ta là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và là tiền đề quan trọng cho việc xác định các mục tiêu đối ngoại, xây dựng các chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại nói chung và mở rộng hoạt động đối ngoại của Đảng ta nói riêng theo trường phái “cây tre Việt Nam”.

Từ những chính sách đối ngoại đúng đắn, thời gian qua, Đảng ta tích cực và chủ động triển khai các hoạt động đối ngoại đảng dựa trên nguyên tắc: Độc lập, tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau; cùng nhau thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội. Từ chỗ có quan hệ với 188 đảng năm 1991, đến nay, Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng. Các hoạt động đối ngoại của Đảng ta được triển khai chủ động, hiệu quả. Với các đảng cộng sản, các đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng có chung biên giới trong khu vực, Đảng ta đã chủ động thúc đẩy quan hệ đạt nhiều bước tiến quan trọng, tiếp tục định hướng chiến lược tổng thể và tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy chiều sâu quan hệ giữa nước ta với các nước. Với các đảng cầm quyền, tham chính và các đảng có vai trò ở các nước trong khu vực, Đảng ta đã thúc đẩy quan hệ với nhiều đột phá mới, tạo cơ sở chính trị và động lực để thúc đẩy mở rộng quan hệ của Việt Nam với các nước.

Trong bối cảnh hiện nay, các nước với các chế độ chính trị khác nhau đều có những điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc của mình, thì việc vận dụng tư tưởng hợp tác quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền chính là bước đột phá trong hoạt động đối ngoại đảng nhằm bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Với các đảng cộng sản và công nhân, cánh tả, các đảng và phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ, Đảng ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ thực chất, có trọng tâm, trọng điểm và các mối quan hệ hợp tác tiếp tục phát huy vai trò tích cực, duy trì lực lượng hậu thuẫn chính trị, ủng hộ lập trường của ta trong nhiều vấn đề. Tại các diễn đàn đa phương chính đảng, trong đó có Hội nghị quốc tế các chính đảng châu Á (ICAPP), Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản vả công nhân (IMCWP)..., Đảng ta tham gia chủ động, tích cực và phát huy vai trò trách nhiệm, đóng góp thiết thực, góp phần nâng cao vị thế trên trường quốc tế.

Cùng với những thành tựu và bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế của Đảng, Đảng ta tiếp tục thúc đẩy tăng cường và quan hệ đối ngoại với các chính đảng trên thế giới theo tinh thần trường phái “cây tre Việt Nam”, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Chính những thành tựu thực tiễn sinh động về đối ngoại đảng, hoạt động hợp tác quốc tế trên kênh đảng là một minh chứng rõ ràng, sinh động khẳng định thêm sức sống và sự trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và sự tiếp nối, phát triển thành công trường phái đối ngoại, ngoại giao mang bản sắc “Cây tre Việt Nam” trong bối cảnh mới của cách mạng Việt Nam./.

NVH40 - Những thách thức đặt ra cho vấn đề an ninh mạng hiện nay

 

Sự phát triển của không gian mạng cùng với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang mang lại những lợi ích vô cùng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, cũng như làm thay đổi nhận thức, hành vi và lối sống của con người. Song, bên cạnh những lợi ích mang lại, không gian mạng cũng đặt ra nhiều nguy cơ, thách thức, tác động trực tiếp đến chủ quyền, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Các cuộc tấn công mạng với động cơ chính trị vào hệ thống thông tin trọng yếu của các nước ngày càng gia tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, quốc phòng và an ninh. Tội phạm mạng ngày càng nguy hiểm với nhiều thủ đoạn tinh vi, kỹ thuật cao, sử dụng các loại mã độc ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tấn công, xâm nhập. Không gian mạng đang trở thành môi trường thuận lợi để các cơ quan đặc biệt nước ngoài, cá nhân, tổ chức khủng bố liên lạc, tuyển mộ lực lượng, gây quỹ, truyền bá tư tưởng chống đối cực đoan, kích động sự hận thù và bạo lực.


Bảo vệ quyền, lợi ích và an ninh quốc gia trên không gian mạng và ứng phó với những nguy cơ mới từ không gian mạng đã trở thành vấn đề toàn cầu, được xác định là một nội dung cốt lõi, sống còn trong quá trình bảo vệ và phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở đó, các nước đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thiết lập quy tắc ứng xử để điều chỉnh các hành vi, mối quan hệ xã hội trên không gian mạng, góp phần nâng cao năng lực bảo vệ an ninh mạng và phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng. Đến nay, có 138 quốc gia (trong đó có 95 nước đang phát triển) đã ban hành Luật An ninh mạng. Trong vòng 6 năm trở lại đây, có 23 quốc gia ban hành trên 40 văn bản luật và dưới luật về an ninh mạng. Điển hình là tháng 9-2018, Mỹ đã công bố Chiến lược An ninh mạng, trong đó xác định mối đe dọa về an ninh mạng là mối đe dọa hàng đầu đối với an ninh quốc gia; tuyên bố sẵn sàng đáp trả bằng các biện pháp quân sự nếu an ninh mạng quốc gia bị đe dọa, tấn công. Tháng 12-2018, Ô-xtrây-li-a ban hành Luật An ninh mạng, ngoài việc nhấn mạnh tầm quan trọng của an ninh mạng, Luật này còn cho phép cơ quan chức năng được truy cập vào các dữ liệu được mã hóa của các nhà mạng.

Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ phát triển in-tơ-nét nhanh nhất thế giới, không gian mạng ở nước ta cũng xuất hiện nhiều nguy cơ, thách thức lớn tác động đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, cụ thể là:


- Các thế lực thù địch, phản động tăng cường sử dụng không gian mạng để phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây mâu thuẫn dân tộc, kích động biểu tình, bạo loạn nhằm chuyển hóa thể chế chính trị tại Việt Nam.

- Vấn nạn tin giả, thông tin sai sự thật, tin xấu, độc, làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đang diễn ra nghiêm trọng(1).


- Hệ thống mạng của nước ta nằm trong nhóm các quốc gia phải đối mặt với hoạt động tấn công mạng quy mô lớn, cường độ cao, tính chất nghiêm trọng và ngày càng nguy hiểm. Nước ta xếp thứ 20 trong các nước trên thế giới có hệ thống mạng bị tấn công bởi phần mềm độc hại, đứng thứ 8 trong số 10 quốc gia hàng đầu thế giới về tình trạng lây nhiễm mã độc cục bộ. Từ cuối năm 2015 đến nay, đã có 12.360 trang tin, cổng thông tin điện tử tên miền quốc gia (.vn) của Việt Nam bị tin tặc tấn công, thay đổi giao diện, trong đó có trên 400 trang tin, cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; có 9.763 trang tin bị tấn công bởi tin tặc nước ngoài và 2.597 trang tin bị tấn công bởi các đối tượng, nhóm tin tặc trong nước (chiếm 21%).


- Tình hình chiếm đoạt thông tin, làm lộ bí mật nhà nước, lộ thông tin cá nhân của người dùng in-tơ-nét diễn ra đáng lo ngại.


- Hoạt động tội phạm sử dụng công nghệ cao gia tăng về số vụ, thủ đoạn tinh vi, gây thiệt hại nghiêm trọng về nhiều mặt và hệ lụy lâu dài cho xã hội, trong đó có các hoạt động tội phạm, như lừa đảo, tổ chức đánh bạc trực tuyến(2).


- Công tác quản lý nhà nước về không gian mạng đối mặt với nhiều thách thức trước những dịch vụ mới trên mạng, như thanh toán trực tuyến, thương mại điện tử, trò chơi trực tuyến, kinh doanh tiền ảo, kinh doanh đa cấp. Đồng thời, đặt ra một số vấn đề về an ninh quốc gia, nguy cơ mất an ninh thanh toán, an ninh thông tin mạng, như nguy cơ mất an ninh thông tin mạng tạo điều kiện cho đối phương tiến hành thu thập tin tức tình báo; nguy cơ thất thu thuế, mất chủ quyền không gian thanh toán; tình trạng cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thanh toán, trung gian thanh toán trong và ngoài nước tạo môi trường lý tưởng cho tội phạm sử dụng công nghệ cao hoạt động phạm tội, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự xã hội.


- Công tác đào tạo chuyên gia an ninh mạng còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Do vậy, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh mạng, cụ thể là Luật An ninh mạng, là yêu cầu hết sức cấp thiết. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; tạo hành lang pháp lý để nâng cao năng lực bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, góp phần bảo đảm chủ quyền, an ninh, trật tự và xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh trên không gian mạng.

Đáp ứng yêu cầu thực tiễn trên, Luật An ninh mạng của Việt Nam đã được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 5, với tỷ lệ 86.86%, gồm 7 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 

 

NVH40 - Ấn tượng về đường lối đối ngoại Việt Nam

 

Việt Nam theo đuổi đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Công tác đối ngoại góp phần quan trọng làm thay đổi vị thế quốc gia, từng bước nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đây là đánh giá của nhà báo Ngụy Vi, Trưởng Ban tiếng Việt, Đài Phát thanh-Truyền hình Trung ương Trung Quốc trong cuộc trò chuyện với phóng viên TTXVN tại Bắc Kinh.

Đề cập về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thời gian qua, nhà báo Ngụy Vi nhận định: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, trong đó nêu rõ quan điểm lý luận chủ đạo của Đảng trong thời kỳ phát triển mới ở Việt Nam, những vấn đề căn bản như con đường và phương hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.

Bài viết khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ rõ tính đúng đắn trong đường lối phát triển của Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời tổng kết kinh nghiệm về đổi mới lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam và những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới của Việt Nam.

Theo nhà báo Trung Quốc, với vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, mang lại những thay đổi to lớn và tốt đẹp cho đất nước. Những thành tựu đổi mới của Việt Nam cho thấy, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đạt hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội.

Chia sẻ nhận định tương tự, nguyên Đại sứ Cuba tại Việt Nam Fredesman Turro Gonzalez nhấn mạnh: Đảng Cộng sản Việt Nam đã có đóng góp quan trọng về mặt lý luận vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước xuất phát từ trình độ phát triển thấp của lực lượng sản xuất và tư liệu sản xuất. Việt Nam đã trở thành hình mẫu cho các nước đang phát triển, nhất là những nước đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Theo Đại sứ Fredesman, đề cập về thành tựu ngoại giao của Việt Nam không thể không nhắc đến đường lối đối ngoại mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam khôn khéo, linh hoạt, bản lĩnh và kiên cường.

Công cuộc đổi mới đã mở cánh cửa để Việt Nam hướng ra bên ngoài, mở rộng quan hệ quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài và hội nhập thế giới. Việt Nam tham gia rất tích cực vào hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, khéo léo tận dụng những yếu tố tích cực của toàn cầu hóa mà không từ bỏ những nguyên tắc đối ngoại, đồng thời hạn chế tác động của những yếu tố tiêu cực. Việt Nam đã trở thành đối tác đáng tin cậy với tất cả các bên và đã thiết lập quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược với nhiều nước.

Trong bài viết có tiêu đề “Ngoại giao cây tre và động lực mới cho quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam-Indonesia”, nhà báo Veeramalla Anjaiah, nghiên cứu viên cao cấp thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á (CSEAS) cũng đề cao ý nghĩa chính sách “ngoại giao cây tre” của Việt Nam. Bài viết cho rằng, với chính sách này, Việt Nam đã thành công trong việc duy trì mối quan hệ thực tế với các cường quốc và bảo đảm lợi ích quốc gia.

Việt Nam nổi tiếng là đất nước thân thiện, an toàn và mang đến cho du khách những trải nghiệm văn hóa độc đáo. Việt Nam có mối quan hệ lâu dài với nhiều quốc gia, ủng hộ và bảo vệ quyền độc lập, tự do của các quốc gia vì hòa bình và phát triển.

 

NVH40 - HÀNH VI NÀO BỊ CẤM THEO LUẬT AN NINH MẠNG 2018?

 

Luật An ninh mạng 2018 (Luật An ninh mạng) được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/6/2018. Luật gồm có 7 Chương, 43 Điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2019. Theo đó, Luật An ninh mạng quy định về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Luật này bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng

Luật An ninh mạng đảm bảo quyền tự do sử dụng không gian mạng của mọi tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, việc hoạt động trên không gian mạng cũng phải trong khuôn khổ Luật không cấm. Theo Điều 8 Luật An ninh mạng thì những hành vi sử dụng không gian mạng để thực hiện các hành vi sau đây bị cấm:

–  Chiếm đoạt, mua bán, thu giữ, cố ý làm lộ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư gây ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

– Cố ý xóa, làm hư hỏng, thất lạc, thay đổi thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư được truyền đưa, lưu trữ trên không gian mạng.

– Cố ý thay đổi, hủy bỏ hoặc làm vô hiệu hóa biện pháp kỹ thuật được xây dựng, áp dụng để bảo vệ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư.

– Đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trái quy định của pháp luật.

– Cố ý nghe, ghi âm, ghi hình trái phép các cuộc đàm thoại.

– Hành vi khác cố ý xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư.

– Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc.

– Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

– Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

– Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

– Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

– Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của người khác.

– Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.

– Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.

– Hành vi khác vi phạm quy định của Luật này.

Người nào có hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Như vậy, Luật An ninh mạng là hành lang pháp lý vững chắc để đảm bảo sự thông suốt, lành mạnh của không gian mạng. Các tổ chức, cá nhân khi sử dụng mạng máy tính, nhất là mạng xã hội như facebook, zalo,…phải sáng suốt chọn lọc thông tin, không chia sẻ, thích các trang phản động, các trang tuyên truyền chống phá nhà nước ta; không đăng, chia sẻ những thông tin sai sự thật, chưa được kiểm chứng, nói xấu người khác,…. Trường hợp phát hiện những thông tin thuộc các trường hợp bị cấm nêu trên thì phải đấu tranh phản bác và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền như Công an, Ủy ban nhân dân các cấp để kiểm tra, xử lý.

 

NVH40 - Trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”

 

Tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc tổ chức ngày 14-12-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” (“Thân gầy guộc, lá mong manh, mà sao nên luỹ, nên thành tre ơi!”), thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Đó là: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tuỳ cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”(17)!

Hình ảnh cây tre - một biểu tượng rất mộc mạc mà thân thuộc với người Việt Nam - đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sử dụng để gửi gắm thông điệp mang tính triết lý hết sức sâu sắc nhưng vô cùng gần gũi về đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đây là sự đúc kết, chiêm nghiệm sâu sắc.

Đặc tính “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” cũng chính là sự tiếp thu, đúc kết sinh động tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - mục tiêu cơ bản và xuyên suốt của cách mạng Việt Nam chính là “gốc vững”, là kim chỉ nam cho hợp tác quốc tế của cách mạng Việt Nam, dù mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn có thể có đặc điểm riêng. Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ chính là “thân chắc”, là cơ sở vững chắc để Đảng và Nhà nước triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế. Thực hiện hợp tác quốc tế theo hướng đa phương và đa dạng các mối quan hệ vì hòa bình, hợp tác và phát triển chính là “cành uyển chuyển” để thực hiện sứ mệnh mới, góp phần tạo dựng và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế, nâng cao vị thế và gia tăng tiềm lực cho đất nước, sớm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” là sự tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh, là đỉnh cao của đúc kết lý luận bằng hình ảnh dễ nhớ, dễ hiểu về đường lối đối ngoại của Đại hội XIII, trên cơ sở tiếp tục phát triển đường lối đối ngoại của các kỳ Đại hội Đảng trước, đó là: “Việt Nam cần tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng”.

NVG40 - Nhận diện và phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam

 

Trong gần 4 thập niên đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong bảo vệ quyền con người. Tuy vậy, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách xuyên tạc thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, hòng chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Do đó, việc nhận diện, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo đảm ổn định và sự phát triển bền vững của đất nước.

Quyền của con người với tư cách là hiện thân của tự do”(1), là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử, “phản ánh quá trình nhân loại đấu tranh tự giải phóng mình khỏi tình trạng nô dịch, bóc lột và phụ thuộc, vươn tới cuộc sống xứng đáng với danh dự và phẩm giá con người”(2). Tuy nhiên, quyền con người cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động thường xuyên lợi dụng, xuyên tạc, hòng gây mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, mưu toan xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam lựa chọn và xây dựng. Nhằm thực hiện âm mưu này, chúng không ngừng tìm cách phủ nhận những thành tựu về bảo đảm quyền con người mà Việt Nam đã đạt được trong nhiều năm qua; do đó, việc nhận diện, đấu tranh và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng, đòi hỏi cả hệ thống chính trị và toàn dân cần đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phát huy trách nhiệm và quyết tâm chính trị, với tầm nhìn toàn diện, đồng bộ và giải pháp khoa học, thiết thực.

Bản chất của quyền con người

Thứ nhất, quyền con người là giá trị chung của nhân loại, là mục tiêu hướng tới của mọi xã hội dân chủ và văn minh. Quyền con người là phạm trù tổng hợp, phức tạp, nên có nhiều quan niệm khác nhau, tuy nhiên quyền con người không trừu tượng, mà luôn gắn với cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột và “phụ thuộc vào bản chất của phương thức sản xuất và bản chất chính trị - xã hội với quan hệ sản xuất thống trị quy định nên chế độ chính trị - xã hội ấy”(3), “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát nhằm bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động và sự lãng quên làm tổn hại đến các quyền tự do cơ bản và phẩm giá con người”(4)...

Tư tưởng quyền con người xuất hiện từ chế độ thị tộc, nhưng phải đến thời kỳ cận đại mới được thảo luận sôi nổi và được đề cập như một học thuyết thực sự. Vì vậy, quyền con người thường bị lợi dụng nhằm gây hiểu lầm rằng, nó là thành tựu của riêng văn minh phương Tây. Cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc năm 1945, những văn kiện quốc tế về quyền con người cũng được xây dựng và phát triển (Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948, Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc năm 1965, Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 1966, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR) năm 1966...), quyền con người được khẳng định là những giá trị bẩm sinh, vốn có của mỗi cá nhân, được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và quốc tế; là những giá trị, ngôn ngữ và tiêu chuẩn chung của nhân loại. Thực tế, quyền con người trước khi chuyển hóa vào hiện thực trong cuộc sống, “phải trở thành quan niệm của chính con người, nghĩa là được con người coi là cái thiết yếu, cái cần phải như vậy - cần cho sự tồn tại”(5).

Ở Việt Nam, Đảng ta luôn coi quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại. Việc chỉ rõ nguồn gốc quyền con người là cơ sở bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc, coi quyền con người như một phát kiến, sản phẩm của riêng giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản phương Tây; góp phần quan trọng trong đấu tranh chống các quan điểm cực đoan, phiến diện của các lực lượng thù địch, phản động luôn sử dụng thủ đoạn áp đặt cái gọi là “chuẩn mực” quyền con người tư sản vào các nước không “cùng quỹ đạo” hòng xóa bỏ chế độ chính trị ở những quốc gia này.

Thứ hai, quyền con người luôn gắn liền với quyền dân tộc tự quyết và chủ quyền quốc gia, gắn bó mật thiết trong toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử. Muốn có quyền con người, phải thực sự có chủ quyền quốc gia. Khi chủ quyền của một quốc gia, dân tộc bị xâm phạm, chà đạp thì không thể tồn tại các “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” của nhân dân. Ở cấp độ quốc tế, quyền dân tộc tự quyết được khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc(6) và được nhấn mạnh trong các văn kiện quốc tế, rằng: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết... Khước từ quyền dân tộc tự quyết là sự vi phạm quyền con người”(7). Vì vậy, không một quốc gia, không một tổ chức nào được phép tự coi mình là đại diện cho quyền con người toàn nhân loại, sử dụng cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền” hay “nhân quyền không biên giới” nhằm can thiệp vào công việc nội bộ các quốc gia có chủ quyền, bởi đó là hành động vi phạm nghiêm trọng quyền con người.

Đối với Việt Nam, thực tiễn lịch sử cho thấy, khi mất chủ quyền thì người dân không có tự do, dẫn đến các quyền con người bị chà đạp, “Thân phận người An Nam chỉ là thân phận người nông nô”(8). Do đó, để giành quyền tự do của mỗi cá nhân thì trước hết phải giành quyền tự do cho cả dân tộc. Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là nền tảng, là điều kiện quan trọng để thực hiện quyền con người. Chỉ đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Dân chủ Cộng hòa ra đời, địa vị của người dân Việt Nam mới được thay đổi từ nô lệ trở thành chủ nhân của một quốc gia độc lập, các quyền công dân của người Việt Nam lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp năm 1946. Gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, hiện nay Việt Nam đang từng bước thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” - đây chính là biểu hiện cao nhất và cụ thể nhất của quyền con người Việt Nam, của sự khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc.

Thứ ba, quyền con người là giá trị phổ quát và mang tính tất yếu, song phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Quyền con người dù được thừa nhận, song lại không mặc định được áp dụng trực tiếp trong xã hội, chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền ấy mới chuyển thành những quyền con người mang đầy đủ giá trị hiện thực, và pháp luật chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hoá đó. Trên phạm vi thế giới, việc pháp điển hóa các quyền ấy thành các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người diễn ra một cách có hệ thống kể từ khi Liên hợp quốc ra đời. Theo đó, quyền con người đã trở thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp luật quốc tế, và việc tôn trọng, bảo vệ các quyền con người là thước đo về trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế giới. Trong phạm vi quốc gia, việc bảo vệ quyền con người thể hiện ở việc ghi nhận các quyền trong pháp luật cùng với các thành quả phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, qua đó, cũng là cách để một quốc gia tuyên bố với thế giới về hiện thực quyền con người của mình. Vì thế, không thể có cái gọi là “nhân quyền không biên giới”, nhân danh quyền con người để thực hiện các hành động bất hợp pháp, như xâm phạm chủ quyền và can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.

Tại Việt Nam, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập cho đến nay, cả hệ thống chính trị Việt Nam luôn nỗ lực bảo đảm quyền con người. Cùng với sự phát triển của đất nước, những tiêu chuẩn về quyền con người càng được củng cố. Trên cơ sở này, Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, tham gia các điều ước quốc tế, phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng nhằm thực hiện tiến bộ xã hội, mang lại những thành tựu quan trọng, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Thứ tư, quyền không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân. Sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ được hiểu rằng, các quyền của con người chỉ ra những nghĩa vụ của xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu của mỗi cá nhân, đồng thời mỗi cá nhân phải tôn trọng và thực thi nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với xã hội và cộng đồng. “Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi”(9). “Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ”(10)... Điều này có nghĩa, mỗi cá nhân trong khi được hưởng thụ các quyền cần tôn trọng tự do của người khác và tôn trọng lợi ích của cộng đồng, cũng như vậy, “Nhà nước trong các chức năng của mình, vừa phải tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, vừa phải bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cũng như lợi ích chung của cả cộng đồng”(11). Mọi thành viên của xã hội đều có quyền và nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền và tự do của người khác. Do đó, tuyệt đối hóa quyền con người một cách máy móc mà không thấy nghĩa vụ cá nhân với cộng đồng và với xã hội là sai lầm.

Quan điểm quyền không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân cũng được Đảng ta khẳng định: “Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân”(12). Năm 2005, Sách trắng “Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam” cũng khẳng định: “... các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng”(13). Đây chính là cơ sở quan trọng để chúng ta bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền con người. 

Sự lợi dụng, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam

Nhìn chung, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lợi dụng, xuyên tạc quyền con người, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam, hiện nay chủ yếu bao gồm: những người theo đường lối chính trị trái ngược với giá trị của chủ nghĩa xã hội; những người cơ hội chủ nghĩa, suy thoái về tư tưởng, chính trị tại Việt Nam; các nhóm, hội, tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài; một số tổ chức phi chính phủ “khoác áo quyền con người”,... Những chiêu trò xuyên tạc của chúng thường được biểu hiện như sau:

Thứ nhất, cổ xúy cho những giá trị quyền con người phương Tây, nhân danh cái gọi là “quyền con người phổ quát”, coi phương Tây là trung tâm, chi phối quyền con người toàn thế giới, đồng thời các thế lực thù địch, phản động ra sức tuyên truyền, cổ vũ cho luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”. Chúng cũng tìm cách khoét sâu những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý xã hội, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng và công bằng xã hội nhằm cường điệu hóa các giá trị tư sản, coi quyền con người là sản phẩm của riêng giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản phương Tây. Chúng lợi dụng những vụ việc phức tạp nảy sinh trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng thổi phồng, bóp méo tình hình thực tế để xuyên tạc chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, quyền con người, đàn áp dân tộc, tôn giáo nhằm kích động các hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam, tạo cớ mở đường để bên ngoài can thiệp; phê phán, xuyên tạc rằng Nhà nước Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, tự do hội họp. Bên cạnh đó, chúng còn triệt để khai thác các vấn đề nhạy cảm, phức tạp, như tham nhũng, khiếu kiện, tội phạm, tệ nạn xã hội, tình hình dịch bệnh COVID-19, việc bắt, xử lý các đối tượng chống phá Nhà nước Việt Nam,... hòng vu khống Việt Nam vi phạm quyền con người.

Thứ hai, dựa trên thủ đoạn tuyệt đối hóa các quyền tự do cá nhân và coi đây là thước đo về dân chủ, quyền con người của một quốc gia, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tự cho mình quyền “can thiệp nhân đạo”, áp đặt những “chuẩn mực” quyền con người, nhân danh “tinh thần thời đại” và “giá trị phổ biến” đối với Việt Nam; tìm cách gắn “điều kiện”, “tiêu chuẩn” phi pháp về quyền con người trên nhiều lĩnh vực, như quan hệ ngoại giao, hợp tác kinh tế, thương mại, an ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục,... hòng gây sức ép yêu cầu Việt Nam cải cách thể chế kinh tế, chính trị, pháp lý theo cái gọi là chuẩn mực, giá trị dân chủ, quyền con người kiểu phương Tây. Các thế lực bên ngoài còn thông qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài triển khai các dự án hỗ trợ cải cách tư pháp để tìm cách can thiệp vào quá trình xây dựng, sửa đổi pháp luật Việt Nam và gây sức ép đòi mở rộng các quyền và tự do cơ bản của công dân theo tiêu chí của họ, tạo hành lang cho các tổ chức và phần tử chống đối trong nước hoạt động.

Thứ ba, các thế lực thù địch tìm cách tài trợ, hậu thuẫn về vật chất lẫn tinh thần cho các phần tử, tổ chức chống Đảng, Nhà nước Việt Nam với chiêu bài “bảo vệ quyền con người” ở cả trong và ngoài nước, hình thành lực lượng, tổ chức chính trị đối lập với Đảng và Nhà nước Việt Nam; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc; từng bước làm mất lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Ở bên trong, chúng tìm cách móc nối các phần tử bất mãn; mua chuộc, ép buộc những người nhẹ dạ tham gia để làm bình phong, lá chắn; tập hợp những đối tượng cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất, cái gọi là những “nhà dân chủ” tự xưng, để hình thành các tổ chức dưới danh nghĩa quyền con người, như “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”, “Nhóm công dân tự do”, “Hội phụ nữ nhân quyền”,... Ở bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong ra sức thúc đẩy các hoạt động phi pháp, như kích động, chống đối, vận động các tổ chức quốc tế trao cái gọi là “giải thưởng nhân quyền” cho các đối tượng vi phạm pháp luật bị bắt ở trong nước... nhằm làm cho các đối tượng trong nước hoạt động quyết liệt hơn. Các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “trong đánh ra, ngoài tiến công vào” để lôi kéo lực lượng, tạo dựng “ngọn cờ” và thành lập các tổ chức chính trị phản động, chống phá Đảng và Nhà nước, thường được che giấu tinh vi dưới danh nghĩa “cứu tinh ngoại quốc”, “bảo vệ dân chủ” và “đấu tranh vì nhân quyền”... Tuy nhiên, thực chất là gây rối, phá hoại, tạo mâu thuẫn trong nội bộ và can thiệp vào Việt Nam.

Thứ tư, xâm nhập, kích động, tuyên truyền hòng thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nước ta sang tư tưởng quyền con người tư sản là cách thức các thế lực thù địch, phản động ưu tiên nhằm làm “chệch hướng” nền tảng tư tưởng của Đảng ngay từ trong nội bộ. Chúng xác định rằng, lực lượng bên ngoài là tác nhân quan trọng; lực lượng “ngầm” bên trong nội bộ Đảng, Nhà nước Việt Nam đóng vai trò quyết định, nòng cốt, chúng ““móc nối và tìm cách  mua chuộc bằng tiền, hiện vật có giá trị để làm thay đổi tư tưởng, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một số cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược và cơ quan trọng yếu nhằm thay đổi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước theo hướng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, làm chệch hướng XHCN trong bảo đảm dân chủ, nhân quyền và quá trình đổi mới đất nước nói chung”. Bên cạnh đó, chúng cũng ráo riết lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình chống tham nhũng, tiêu cực hòng kích động, gây chia rẽ, tạo nghi ngờ trong các tầng lớp nhân dân; gây mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, Nhà nước. Nhằm can thiệp sâu hơn vào nội bộ Việt Nam, chúng thành lập một số nhóm tư vấn ở nước ngoài, qua đó để tác động và thúc đẩy Việt Nam cải cách quyền con người theo hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, các thế lực thù địch tích cực lôi kéo, thu hút và tiếp cận các bộ, ngành, viện nghiên cứu để móc nối và tác động vào nội bộ Việt Nam, mưu toan hòng “chuyển hóa” một số chuyên gia đầu ngành và nhà khoa học thông qua con đường “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” để đưa cái gọi là các giá trị quyền con người phương Tây vào Việt Nam. Chúng sử dụng nhiều hình thức trá hình, như con đường “ngoại giao thân thiện”, “hỗ trợ nhân đạo”,... để đưa người vào Việt Nam với các danh nghĩa khác nhau, với mục đích tìm hiểu tình hình, thu thập thông tin, móc nối và lôi kéo các lực lượng “ngầm” gây rối ở một số địa phương, phản ánh bóp méo sự thật, gây hoang mang, nghi ngờ và gây mâu thuẫn dân tộc, tạo điều kiện thúc đẩy “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” hòng can thiệp vào nội bộ của Việt Nam.

Đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng quyền con người để chống phá Việt Nam

Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác âm mưu, thủ đoạn lợi dụng quyền con người của các thế lực thù địch, phản động, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:

Một là, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người hiệu quả trên thực tế, điều kiện đầu tiên là cán bộ, đảng viên và nhân dân phải nắm vững chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền con người. Cần tạo sự chuyển biến trong nhận thức về quyền con người qua các kênh tuyên truyền và giáo dục, qua đó, những âm mưu, thủ đoạn và hoạt động lợi dụng, xuyên tạc của các thế lực thù địch về thành tựu bảo đảm quyền con người, xâm phạm đến quyền con người, đến lợi ích của nhân dân Việt Nam dễ được nhận diện và có căn cứ để đấu tranh, phản bác hiệu quả. Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, không ngừng củng cố nhận thức chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, tự giác, tích cực tham gia phòng ngừa, đấu tranh, giữ vững “thế trận lòng dân”, có khả năng nhận diện và “tự miễn dịch” trước các thông tin xấu, độc. Tăng cường và nâng cao hiệu quả phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, thực hiện mỗi cán bộ, đảng viên một là chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng; thực hành phát huy dân chủ và quyền con người.

Hai là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, coi trọng và thúc đẩy các quyền con người, coi con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội, “đưa lực lượng sản xuất phát triển ngày càng nhanh chóng và tiến lên hiện đại là yêu cầu cơ bản và cấp bách để thực hiện có hiệu quả chiến lược con người”. Làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc là một trong những minh chứng sinh động, thuyết phục nhất để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, vô căn cứ của các thế lực thù địch về thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội nhằm hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Đồng thời, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với người có công với cách mạng; quan tâm đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các chính sách cần chú trọng đúng mức đến các quan điểm và nguyện vọng của các nhóm xã hội.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện chính sách xã hội, pháp luật về quyền con người, trong đó, con người là trung tâm, là chủ thể, là động lực và là mục tiêu của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, phù hợp với nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của người dân, phấn đấu vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân. Tiếp tục củng cố hệ thống các quyền con người, quyền công dân đã được hiến định, để mọi người dân đều được hưởng thụ các thành quả phát triển kinh tế, xã hội của đất nước một cách công bằng thông qua việc được tiếp cận các cơ hội bình đẳng và phù hợp, bảo đảm sự tương thích với các nguyên tắc, tiêu chuẩn pháp luật quốc tế về quyền con người. Việc hoàn thiện pháp luật đó cũng là kiến tạo cơ sở pháp lý và chính trị cho mọi hoạt động khác vì sự phát triển của con người Việt Nam. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện, giám sát thực hiện và xử lý các vi phạm quyền con người để bảo đảm tất cả quyền con người đều được tôn trọng, bảo đảm trong thực tế.

Bốn là, mở rộng quan hệ quốc tế trong nghiên cứu và thực thi quyền con người. Việc bảo vệ quyền con người ở các quốc gia được coi như một điều kiện quan trọng trong quá trình hợp tác quốc tế hiện nay. Do đó, trong nhận thức và giải quyết vấn đề quyền con người, cần quán triệt nguyên tắc thống nhất tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người khi xem xét những vấn đề thực tiễn về quyền con người.

Việc thực hiện dân chủ và quyền con người còn tùy thuộc vào nhiều điều kiện, trước hết là trình độ phát triển kinh tế và điều kiện cụ thể của mỗi nước, mỗi dân tộc trên tất cả các phương diện của đời sống. Các nước có chế độ chính trị khác nhau, trình độ phát triển khác nhau, không thể lấy quan niệm, thực tiễn của nước này, của dân tộc này về dân chủ và quyền con người áp đặt cho dân tộc khác, nước khác. Do đó, xây dựng và thúc đẩy đối thoại trên lĩnh vực dân chủ, quyền con người có ý nghĩa tích cực, góp phần nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng với các đối tác quốc tế trong vấn đề quyền con người. Qua đối thoại cũng nhằm bác bỏ những thông tin sai lệch, luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của các nhóm, cá nhân cực đoan trong và ngoài nước về tình hình quyền con người ở Việt Nam. Bên cạnh việc thực hiện cơ chế đối thoại chính thức với các nước, cần chủ động và tích cực đăng cai tổ chức các hội thảo quốc tế để các nhà chính trị và các nhà khoa học tham dự và thảo luận về các vấn đề liên quan đến quyền con người.

“Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, tôn trọng và bảo đảm quyền con người là quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Quyền con người luôn là quyền cơ bản và quan trọng nhất, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, nhận diện, vạch trần và kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch về thành tựu bảo đảm quyền con người có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo đảm ổn định và sự phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay./.

NVG40 - “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” và vấn đề đặt ra trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự hiện nay

 

"Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để khơi dậy sức mạnh và nguồn lực nhân dân trong quá trình hiện thực hóa chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống.

Định hướng phát triển đất nước những năm tiếp theo về dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: Thực hành và phát huy rộng rãi quyền làm chủ của nhân dân và vai trò chủ thể của nhân dân, thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Trong bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam" đăng trên Báo Nhân Dân ngày 17/5/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: "Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH; xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam". Làm rõ, hoàn thiện lý luận, thể chế hóa, phát huy phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong thực tiễn đời sống xã hội vấn đề cấp thiết, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi hiện nay.

 1. Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về mục tiêu cách mạng vô sản là phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân có giá trị khoa học, thực tiễn, là nền tảng phương pháp luận trong xây dựng nền dân chủ XHCN. Theo đó, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước và giữ vai trò quyết định sự tồn tại của nhà nước, được thể hiện ra như là “một trong những tính quy định, cụ thể là sự tự quy định của nhân dân”[1]; nhà nước dân chủ thực sự là nhà nước “ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”[2]. Xã hội hướng tới sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Quan điểm đó tạo ra sự thay đổi có tính chất cách mạng trong nhận thức về dân chủ, có giá trị lý luận, thực tiễn hình thành dân chủ XHCN.

https://file1.dangcongsan.vn/data/0/images/2021/08/31/ctvbandoc/bangkhenbo-cong-an-2-1204x800-1.jpg?dpi=150&quality=100&w=780

Hình ảnh tại lễ tuyên dương các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong phong trào

 toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 2020.

Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò, vị trí, lực lượng, sức mạnh to lớn của nhân dân, là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối thượng”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”. Người nhấn mạnh: “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”[3] ; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”[4]. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân, thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đây là tư tưởng nền tảng mà Đảng ta hướng tới, đồng thời là cách thức thực hiện mục tiêu, con đường đi lên CNXH ở nước ta.

 Thực tiễn nhiều năm thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp trước thời kỳ đổi mới, do hoàn cảnh lịch sử của thời kỳ đó, quyền làm chủ của nhân dân chưa thực sự được phát huy, việc huy động sự đóng góp và sức dân vẫn còn nặng nề, mệnh lệnh hành chính. Xuất phát từ thực tiễn đó, trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ V của Đảng (1981 - 1986), Đảng ta đã đề ra chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đây là một trong những nội dung đặc biệt nhấn mạnh về tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng. Ngày 28/11/1984, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) đã ban hành Chỉ thị số 53-CT/TW “Về tăng cường công tác quần chúng của Đảng”, trong đó nhấn mạnh: “Phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện tốt khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong sản xuất, phân phối cũng như trong tất cả các công tác quan hệ trực tiếp đến quần chúng”. Có thể nói, lần đầu tiên, phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được Đảng ta chính thức đề ra, trở thành một chủ trương lớn, một phương châm hành động cụ thể.

Tiếp đó, ngày 18/02/1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, trong đó nhấn mạnh: “Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất”. Nội dung chính của Chỉ thị xoay quanh 04 khâu liên quan đến dân chủ: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Ngày 28/3/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” theo nội dung của phương châm căn bản trên. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011), Đại hội XII xác định bản chất “Nhân dân làm chủ”, “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân” là 02 trong 08 đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, căn cứ vào tình hình thực tiễn và quan điểm mở rộng dân chủ, Đảng ta đã bổ sung 02 khâu trong phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[5].

 Như vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã bổ sung nội dung “dân giám sát”, "dân thụ hưởng” vào nội dung phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.  Đây là sự phát triển tư duy lý luận, hoàn thiện chủ trương của Đảng về dân chủ[6]. Sự phát triển, hoàn thiện đó có ý nghĩa thiết thực, quan trọng trong xây dựng và phát huy nguồn lực con người, là động lực, yếu tố sống còn, có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giai đoạn tiếp theo. Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vậy nội hàm của phương châm trên là gì? Phải chăng là những điều cơ bản, khái quát sau đây:

 “Dân biết” là nhân dân hiểu và nắm rõ được chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật liên quan đến cuộc sống nhân dân, vận mệnh đất nước, dân tộc. Nhân dân nắm, biết để bàn bạc, đóng góp ý kiến, hoạch định, góp phần bảo đảm khi được ban hành, thực hiện trong đời sống, đem lại kết quả tốt. Nhân dân biết, nắm rõ, hiểu được chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, tạo cơ sở để thống nhất, đồng thuận, đồng lòng, đoàn kết tổ chức, thực hiện đạt kết quả cao trong cuộc sống. Nhân dân hiểu rõ mục đích cuối của chủ trương, chính sách, pháp luật là phục vụ lợi ích của chính nhân dân, thành quả của chủ trương, chính sách, pháp luật mang lại do nhân dân thụ hưởng, tạo ra xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Để nhân dân “biết” phải sử dụng hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục.

 “Dân bàn” là nhân dân được thảo luận, bàn bạc, ý kiến, góp ý với Đảng và Nhà nước, để việc hoạch định, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật được thực hiện một cách chính xác, phù hợp, hiệu quả. Nhân dân bàn bạc, thống nhất cách thức, biện pháp tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả vào thực tiễn công việc, mang lại lợi ích cho nhân dân, đất nước. Khi nhân dân góp ý kiến đúng, xác đáng phải trân trọng, tiếp thu, hoàn thiện cho tốt hơn; khi nhân dân góp ý kiến chưa xác đáng, chưa phù hợp phải giải thích, tuyên truyền, thuyết phục để nhân dân hiểu, nắm rõ chủ trương, chính sách, pháp luật và những lợi ích đem lại. Để nhân dân “bàn” phải có cơ chế, cách thức tổ chức phù hợp.

 “Dân làm” là nhân dân làm việc, thực hiện, hành động chủ trương, nghị chính sách, pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, đảm bảo hiệu quả. Nhân dân thực hiện tinh thần làm chủ, vai trò chủ thể thực hiện, triển khai hoạt động, công việc với cách thức, phương pháp, phương tiện, lực lượng thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật, việc làm vào đời sống đạt hiệu quả. Trong quá trình đó, cán bộ, đảng viên trước hết làm tốt vai trò là một công dân, với tinh thần là hạt nhân, đi đầu trong tổ chức, triển khai, thực hiện.

 “Dân kiểm tra” là việc nhân dân xem xét, đánh giá thực tế thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, việc làm, qua đó phát hiện những sai lệch, thiếu sót, đề xuất, ngăn chặn, xử lý, đưa ra biện pháp điều chỉnh kịp thời, bảo đảm thực hiện có hiệu quả, đạt mục tiêu đề ra. Mặt khác, qua kiểm tra để khuyến khích, biểu dương những việc làm tốt, mô hình hay. Nhân dân kiểm tra bằng cơ chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện dân cử, nhất là dân chủ ở cơ sở. Để nhân dân kiểm tra được cần có cơ chế cụ thể, cách thức tiến hành phù hợp.

 “Dân giám sát” là nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá quá trình thực hiện, kết quả thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án, công việc thực hiện. Nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có đúng, có tuân thủ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật không. Giám sát bằng hình thức, phương pháp cụ thể, thường xuyên, theo nội dung công việc, trực tiếp, hoặc gián tiếp.

 “Dân thụ hưởng” là nhân dân được nhận, thụ hưởng thành quả, kết quả của quá trình phát triển về đời sống vật chất, tinh thần mà các chủ trương, đường lối,  chính sách, pháp luật mang lại sau quá trình tổ chức, thực hiện. Nhân dân thụ hưởng lợi ích, giá trị dẫn tới xã hội có trật tự, kỷ cương, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; đồng thời nhân dân thấy được mục đích, động lực thực sự, cuối cùng của chủ trương, chính sách, pháp luật mà Đảng, Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện đều vì con người, vì nhân dân, lan toả giá trị tiến bộ, nhân văn, phẩm giá con người, bản chất chất của chế độ xã hội.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã bổ sung nội dung “dân giám sát” vào phương châm để tạo thuận lợi, có cơ sở chính trị, pháp lý tổ chức thực hiện, mở rộng, tăng cường, phát huy dân chủ, vai trò chủ thể của nhân dân. Nội dung “dân thụ hưởng” trong thực tế đời sống xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong suốt 35 năm đổi mới đất nước, nhân dân đã thụ hưởng tất cả những thành quả của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới mang lại. Tuy nhiên, việc bổ sung nội dung “dân thụ hưởng” vào phương châm nhằm khẳng vai trò làm chủ, chủ thể nhân dân và đích cuối cùng của mọi chủ trương, chính sách, pháp luật là vì lợi ích của nhân dân, đúng với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, đồng thời thể hiện rõ thực tiễn, mục tiêu, con đường đi lên CNXH, dân chủ - nhân dân làm chủ là vấn đề cơ bản, là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam.

NVE40- PHÁT HUY TỐT PHƯƠNG CHÂM “DÂN BIẾT, DÂN BÀN, DÂN LÀM, DÂN KIỂM TRA, DÂN GIÁM SÁT, DÂN THỤ HƯỞNG

 

Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để khơi dậy sức mạnh và nguồn lực của Nhân dân, là quá trình hiện thực hóa chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Sau hơn 35 năm đổi mới, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, được mọi tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ và ngày càng phát huy hiệu quả trên thực tế. Để thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân hơn nữa, Đại hội XIII đã bổ sung nội dung “dân giám sát”, “dân thụ hưởng”. Đây là sự phát triển tư duy lý luận, hoàn thiện chủ trương của Đảng về dân chủ. Sự phát triển, hoàn thiện đó có ý nghĩa thiết thực, quan trọng trong xây dựng và phát huy nguồn lực con người, là động lực, yếu tố sống còn, có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giai đoạn tiếp theo.

“Dân biết” là nhân dân hiểu và nắm rõ được chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật liên quan đến cuộc sống nhân dân, vận mệnh đất nước, dân tộc. Nhân dân nắm, biết để bàn bạc, đóng góp ý kiến, hoạch định, góp phần bảo đảm khi được ban hành, thực hiện trong đời sống, đem lại kết quả tốt. Nhân dân biết, nắm rõ, hiểu được chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, tạo cơ sở để thống nhất, đồng thuận, đồng lòng, đoàn kết tổ chức, thực hiện đạt kết quả cao trong cuộc sống. Nhân dân hiểu rõ mục đích cuối của chủ trương, chính sách, pháp luật là phục vụ lợi ích của chính nhân dân, thành quả của chủ trương, chính sách, pháp luật mang lại do nhân dân thụ hưởng, tạo ra xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Để nhân dân “biết” phải sử dụng hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục.

 “Dân bàn” là nhân dân được thảo luận, bàn bạc, ý kiến, góp ý với Đảng và Nhà nước, để việc hoạch định, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật được thực hiện một cách chính xác, phù hợp, hiệu quả. Nhân dân bàn bạc, thống nhất cách thức, biện pháp tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả vào thực tiễn công việc, mang lại lợi ích cho nhân dân, đất nước. Khi nhân dân góp ý kiến đúng, xác đáng phải trân trọng, tiếp thu, hoàn thiện cho tốt hơn; khi nhân dân góp ý kiến chưa xác đáng, chưa phù hợp phải giải thích, tuyên truyền, thuyết phục để nhân dân hiểu, nắm rõ chủ trương, chính sách, pháp luật và những lợi ích đem lại. Để nhân dân “bàn” phải có cơ chế, cách thức tổ chức phù hợp.

 “Dân làm” là nhân dân làm việc, thực hiện, hành động chủ trương, nghị chính sách, pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, đảm bảo hiệu quả. Nhân dân thực hiện tinh thần làm chủ, vai trò chủ thể thực hiện, triển khai hoạt động, công việc với cách thức, phương pháp, phương tiện, lực lượng thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật, việc làm vào đời sống đạt hiệu quả. Trong quá trình đó, cán bộ, đảng viên trước hết làm tốt vai trò là một công dân, với tinh thần là hạt nhân, đi đầu trong tổ chức, triển khai, thực hiện.

 “Dân kiểm tra” là việc nhân dân xem xét, đánh giá thực tế thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, việc làm, qua đó phát hiện những sai lệch, thiếu sót, đề xuất, ngăn chặn, xử lý, đưa ra biện pháp điều chỉnh kịp thời, bảo đảm thực hiện có hiệu quả, đạt mục tiêu đề ra. Mặt khác, qua kiểm tra để khuyến khích, biểu dương những việc làm tốt, mô hình hay. Nhân dân kiểm tra bằng cơ chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện dân cử, nhất là dân chủ ở cơ sở. Để nhân dân kiểm tra được cần có cơ chế cụ thể, cách thức tiến hành phù hợp.

 “Dân giám sát” là nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá quá trình thực hiện, kết quả thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án, công việc thực hiện. Giám sát cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có đúng, có tuân thủ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật không bằng hình thức trực tiếp, hoặc gián tiếp. Xuất phát từ thực tế, khó phân biệt rõ ràng, rành mạch giữa hoạt động kiểm tra với hoạt động giám sát; lúc nào, việc gì thì kiểm tra và lúc nào, việc gì thì giám sát. Trong đó, nhân dân “giám sát” có phạm vi rộng bao gồm chủ thể quản lý giám sát việc làm của khách thể quản lý trong phạm vi cơ quan, tổ chức, đơn vị; “kiểm tra” có phạm vi hẹp hơn chỉ diễn ra quá trình chủ thể quản lý xem xét việc làm của chủ thể quản lý và tự kiểm tra trong nội bộ, trong bản thân mỗi người theo một cơ chế, quy định nhất định.

 “Dân thụ hưởng” tức là nhân dân được nhận, hưởng thụ thành quả, kết quả của quá trình phát triển về đời sống vật chất, tinh thần mà các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật mang lại sau quá trình tổ chức, thực hiện. Đồng thời, nhân dân thấy được mục đích, động lực thực sự, cuối cùng của chủ trương, chính sách, pháp luật mà Đảng, Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện đều vì nhân dân, bảo đảm quyền con người được thực hiện một cách triệt để, lan tỏa những giá trị nhân văn, tiến bộ đúng với bản chất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là sự phát triển tư duy lý luận, hoàn thiện chủ trương của Đảng về quyền dân chủ của người dân; qua đó, tiếp tục khẳng định nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việc thực hiện phương châm “Dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đã góp phần tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo Hiến pháp năm 2013; Vì vậy trong thời giai tới cần tiếp tục phát huy tốt phương châm trên để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, hung cường./.

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...