Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm
1982 (UNCLOS) là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng, phổ quát toàn bộ các vấn
liên quan đến biển và đại dương. Đây là cơ sở để các nước có biển khẳng định
chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển; giải quyết hòa
bình các vấn đề, tranh chấp về biển và đại dương. Nhận thức rõ điều đó, những
năm qua, Việt Nam đẩy mạnh thực thi UNCLOS, góp phần thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững biển và đại dương.
Với sự tham gia của 168 quốc gia, Công ước
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) được đánh giá là văn kiện pháp lý
quốc tế quan trọng kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ sau Hiến chương
Liên hợp quốc. Theo đó, Công ước đã quy định về quy chế các vùng biển, cách xác
định ranh giới trên biển, phân định biển, cơ chế giải quyết tranh chấp;... đồng
thời, quy định những vấn đề quan trọng liên quan đến bảo tồn, bảo vệ môi trường
biển, sử dụng bền vững biển. Chính vì vậy, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển
còn được coi là “Hiến pháp của đại dương”.
UNCLOS không chỉ tạo ra một khuôn khổ pháp lý
toàn diện, phổ quát một cơ chế giải quyết tranh chấp sáng tạo, thúc đẩy hòa bình,
ổn định trên biển, mà còn có những quy định tiến bộ, gắn liền với định hướng
quản trị, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững về biển và đại dương trong
tương lai. Bởi, các mục tiêu phát triển bền vững nói chung, bảo tồn và sử dụng
bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển nói riêng mãi đến năm 2015 mới được
Liên hợp quốc thông qua. Song, các quy định của UNCLOS đưa ra trước đó hoàn
toàn phù hợp với mục tiêu bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài
nguyên biển hiện nay. Ngoài ra, Công ước cũng quy định, các quốc gia đẩy mạnh
hợp tác, thực hiện các chương trình nghiên cứu, hỗ trợ kỹ thuật nhằm bảo vệ,
gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm biển; quy định khung pháp
lý liên quan tới nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ biển (phần XIII
và XIV của Công ước), hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ và đối xử ưu tiên cho các quốc
gia đang phát triển trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật bao gồm cả việc trợ cấp
vốn, cung cấp cơ sở vật chất, chuyên môn (Điều 202 và 203).
Mục tiêu của UNCLOS là thiết lập một trật tự
pháp lý cho các vùng biển và đại dương, tạo thuận lợi cho việc sử dụng công
bằng và hiệu quả những tài nguyên, bảo tồn những nguồn lợi sinh vật trên các
vùng biển và đại dương cũng như nghiên cứu, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển,
góp phần thực hiện bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên
biển, v.v. Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của UNCLOS, các quốc gia thành
viên, các tổ chức khu vực và quốc tế, trong đó có Việt Nam cần: (1). Định hình
khái niệm ô nhiễm môi trường biển một cách toàn diện và bao trùm ở tầm toàn
cầu; (2). Coi bảo vệ môi trường biển là nghĩa vụ chung của tất cả các quốc gia;
(3). Thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ đa dạng sinh học và bảo tồn nguồn lợi sinh
vật biển, tạo tiền đề cho các phát triển tiếp theo các quy định pháp lý theo
hướng này; (4). Thiết lập và vận hành các cơ chế quốc tế góp phần hình thành và
làm sáng tỏ các quy định pháp lý về bảo vệ môi trường biển; (5). Tạo cơ sở thúc
đẩy tăng cường kiến thức khoa học và năng lực nghiên cứu, chuyển giao công nghệ
biển, v.v.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét