Quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
“Đoàn kết là
truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta
mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến
lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam”(1). Hàng nghìn năm
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã khẳng định, khi đất nước đứng
trước tình thế, hoàn cảnh gian lao, thử thách mang tính bước ngoặt, “nếu biết
khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ
đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, thì con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, phong
ba bão táp, để cập bến bờ vinh quang”(2). Phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc là chủ trương xuyên suốt, thống nhất của Đảng ta, được
thể hiện trực tiếp trong nội dung nhiều văn kiện, nghị quyết, quyết định, chỉ
thị qua các thời kỳ cách mạng. Đến nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày
càng được củng cố vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Trong giai đoạn mới, Đảng ta xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển
quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí
tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(3). Nhìn chung, việc phát huy sức
mạnh của hệ thống chính trị trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
biểu hiện trực tiếp ở việc nâng cao vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội, cụ thể:
Một là, Đảng
Cộng sản Việt Nam là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Theo đó, yếu tố “quyết định thành công của sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tiếp tục tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch,
vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(4).
Thời gian qua, tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị được đổi mới, tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; chú trọng hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ
thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý nhằm hoàn thiện thể chế,
bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
tổ chức bộ máy; phương thức lãnh đạo, năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong
hoạch định đường lối, chủ trương được đổi mới.
Mặt khác, Đảng
tiến hành kiểm tra đối với các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức
chủ yếu khác trong hệ thống chính trị; phát hiện, xử lý kịp thời tình trạng
tham ô, tham nhũng, thoái hóa, biến chất, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ;
bảo đảm làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị, giữ vững niềm tin trong nhân
dân. Nâng cao chất lượng, hiệu quả, hình thành nền nếp trong triển khai các quy
định về tổ chức và hoạt động của Đảng, như Quy định số 08-QĐi/TW, ngày
25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban
Chấp hành Trung ương Đảng”.
Hai
là, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc
phát huy tốt sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì
nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”(5); đồng thời,
nhấn mạnh mọi chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân và “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân
dân làm mục tiêu phấn đấu”(6). Mặt khác, Nhà nước phải không ngừng
“cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(7) và
luôn vì mục tiêu “phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường
thịnh, trường tồn”(8).
Thời gian qua, bộ
máy nhà nước được xây dựng theo hướng ngày càng tinh gọn, trong sạch, vững
mạnh. Mặt khác, cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 tập trung
vào sáu nội dung cơ bản, đó là: cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính;
cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; cải cách chế độ công vụ; cải cách
tài chính công và xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số.
Đến nay, nhiệm vụ
xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số được chú trọng, từng
bước vận hành hiệu quả các trung tâm hành chính công nhằm đáp ứng yêu cầu của
công dân và xã hội; đồng thời, tiếp tục triển khai hiệu quả cơ chế một cửa, một
cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp giải quyết thủ tục hành chính,... từ
đó, không ngừng củng cố lòng tin trong nhân dân. Bên cạnh đó, tập trung nghiên
cứu, hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm thống nhất, thông suốt trong lãnh đạo,
quản lý, điều hành cũng như phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý
kinh tế - xã hội từ Trung ương đến địa phương; phát huy tính chủ động, tích
cực, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm phục vụ tốt
nhất người dân, doanh nghiệp.
Ba
là, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội không ngừng đổi mới, sáng tạo,
đa dạng hóa phương thức vận động quần chúng, coi trọng các phong trào thực
tiễn, hạn chế việc ra nhiều nghị quyết, chỉ thị, chỉ đạo điều hành chung chung;
phương thức vận động các giai tầng trong xã hội, đặc biệt là đối với đồng bào
theo tôn giáo, đồng bào dân tộc thiểu số và người Việt Nam ở nước ngoài được
đổi mới; chủ động nghiên cứu, xây dựng, đề xuất chính sách đối với người Việt
Nam ở nước ngoài để thu hút, huy động mọi nguồn lực cho phát triển.
Hiện nay, hoạt
động giám sát và phản biện xã hội của người dân được đẩy mạnh; đồng thời, chú
trọng kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội; tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực,
không hiệu quả. Mặt khác, cơ chế hoạt động, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từng bước được hoàn
thiện; có sự hiệp thương, phối hợp thống nhất hành động giữa Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên để phát động, triển khai sâu rộng và nâng
cao chất lượng các phong trào thi đua, vận động từng tổ chức, tầng lớp nhân dân
chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, hội viên, tạo nên sự
lan tỏa và tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa
trên tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân
thụ hưởng”.
Hội nghị Trung
ương 8 khóa XIII đã có sự tổng kết, đánh giá khách quan, khoa học về những kết
quả, thành tích đã đạt được cùng những hạn chế, khuyết điểm và bài học kinh
nghiệm sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Hội
nghị Trung ương 7 khóa IX, “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, cụ thể: 1- Công tác
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Trung ương, Quốc hội, Chính phủ
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện thông qua các nghị quyết, chỉ
thị, luật định, chiến lược hành động và đạt được nhiều kết quả tích cực; trình
độ nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên
và các tầng lớp nhân dân về đại đoàn kết toàn dân tộc được nâng lên; sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được phát huy trên mọi lĩnh vực,...;
2- Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn những khó khăn, thách thức cần được giải quyết
triệt để, như tình trạng phân hóa giàu nghèo, di cư trái phép; tệ nạn xã hội
diễn biến phức tạp; tỷ lệ cán bộ là người đồng bào dân tộc thiểu số trong chính
quyền còn khá thấp; hoạt động chống phá, gây chia rẽ của các thế lực thù địch
ngày càng tinh vi, hiện đại, tác động xấu đến mối quan hệ gắn bó giữa các dân
tộc; việc cụ thể hóa trong thực tiễn chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước ở một số lĩnh vực, địa bàn còn hạn chế, hiệu quả chưa cao,... Từ
đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra các yêu cầu nhiệm vụ, giải pháp trong
tình hình mới, như khẩn trương, nghiêm túc xây dựng, triển khai thực hiện đồng
bộ, hiệu quả các chủ trương, chính sách, đồng thời giữ vững vai trò tiên phong,
hạt nhân lãnh đạo của Đảng; không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của Nhà nước trong xây dựng và thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc;
tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng theo hướng sáng tạo, thực sự
đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, phục vụ công cuộc phát
triển đất nước(10),...; thống nhất ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW,
ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục phát huy truyền
thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét