Trong
những năm gần đây theo kết quả được Tổng cục Thống kê công bố, Trong những giai đoạn khủng hoảng, nhất là
trong bối cảnh đại dịch COVID-19 hoành hành, Việt Nam là một trong số ít các quốc
gia trên thế giới có mức tăng trưởng GDP dương (năm 2020 đạt 2,91%, năm 2021 đạt 2,58%) đặc biệt lần đầu
tiên quy mô GDP của Việt Nam đạt 409 tỷ USD, uớc tính GDP năm 2022 là 8,02% và
là mức tăng cao nhất trong giai đoạn này, điều này đã thể hiện sức
chống chịu và tính bền vững của nền kinh tế. Kinh tế khởi sắc là điều
đáng mừng. Vậy nhưng một số kẻ lại cố tình xuyên tạc, phủ nhận những nỗ lực
trong phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam.
“Lưỡi
không xương trăm đường lắt léo. Miệng không vành méo mó tứ phương”. Đây là câu
thành ngữ rất đúng để mô tả về các “nhà dân chủ”. Không khó để nhận thấy, dưới
ánh mắt của những kẻ này, mọi vấn đề của Việt Nam đều mang màu sắc tiêu cực.
Khi kinh tế Việt Nam không tăng trưởng, chúng rêu rao cho rằng Nhà nước không đủ
năng lực lãnh đạo đất nước, các chính sách kinh tế - xã hội được Đảng đưa ra là
sai lầm. Ngược lại, khi kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức cao, những kẻ này lại
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cho rằng kết quả đạt được là
“ăn may”, là “số liệu bịa”…(?!)
Sau
khi Tổng cục Thống kê công bố quy mô GDP của Việt Nam năm 2022 đạt 409 tỷ USD,
những chiếc “lưỡi không xương” tiếp tục tung ra các thông tin độc hại. Có kẻ
cho rằng nền kinh tế Việt Nam phát triển không ổn định, hoàn toàn phụ thuộc vào
các doanh nghiệp nước ngoài; một số kẻ khác lại rêu rao kinh tế Việt Nam phát
triển nhưng không mang lại lợi ích cho dân chúng mà chỉ phục vụ một nhóm nhỏ
trong xã hội. Bằng những luận điệu xảo trá, các “nhà dân chủ” lồng ghép quan điểm
cho rằng “bản chất chế độ không thay đổi thì đất nước không có tương lai”… Thực
tế, mưu đồ của chúng là chống phá chế độ, chống phá đất nước.
Phải
khẳng định rõ, những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã triển khai nhiều giải
pháp để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Trước hết, hành lang pháp lý về
kinh tế đã được xây dựng tương đối đầy đủ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
thuộc mọi loại hình sở hữu hoạt động. Việc hội nhập kinh tế quốc tế cũng diễn
ra mạnh mẽ. Nước ta đã tham gia vào nhiều hiệp định thương mại song phương và
đa phương, trong đó nổi bật như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)… Cùng với đó, công tác phòng,
chống tham nhũng được đẩy mạnh, góp phần làm trong sạch môi trường đầu tư, kinh
doanh. Tất cả yếu tố nêu trên đã tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế đất nước
phát triển.
Hiện
nay, mô hình kinh tế nước ta đang có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực.
Từ một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, xuất
khẩu thô, lao động nhân công giá rẻ, chúng ta đang từng bước chuyển sang nền
kinh tế hiện đại, ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh. Nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam đã vào
được các thị trường khó tính. Năm vừa qua, mặc dù kinh tế thế giới gặp nhiều
khó khăn nhưng giá trị xuất - nhập khẩu của nước ta vẫn cao, tổng kim ngạch xuất
- nhập khẩu 732,5 tỷ USD, trong đó xuất siêu 11,2 tỷ USD. Trong lĩnh vực công
nghiệp, nước ta đã hình thành được một số ngành công nghiệp có quy mô lớn, có
khả năng cạnh tranh và vị trí vững chắc trên thị trường quốc tế. Một số doanh
nghiệp công nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh tốt như Tập đoàn VinGroup,
Tập đoàn Trường Hải, Tập đoàn Thành Công trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp ôtô;
Vinamilk, TH True Milk trong lĩnh vực sản xuất, chế biến sữa và thực phẩm; Tập
đoàn Hoa Sen, Tập đoàn Hòa Phát, Công ty TNHH Hòa Bình Minh, Công ty thép
Pomina, Công ty cổ phần Thép Nam Kim trong lĩnh vực sắt thép, kim khí...
Từ
những thông tin nêu trên, có thể thấy kinh tế Việt Nam hoàn toàn không “nhỏ
bé”, “thiếu ổn định”, “phụ thuộc hoàn toàn” vào bên ngoài như những gì các “nhà
bình luận”, “nhà dân chủ” cố tình tung ra.
Tuy
nhiên, chúng ta không phủ nhận nền kinh tế Việt Nam vẫn còn một số tồn tại, hạn
chế. Trong đó có thể kể đến như: Việc cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng còn chậm; một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách
còn chồng chéo, thiếu chặt chẽ, chưa ổn định; vẫn còn tình trạng lợi ích cục bộ,
sách nhiễu người dân, doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính; công
tác chỉ đạo, điều hành của một số địa phương, bộ, ngành có mặt còn lúng túng,
chưa quyết liệt, phản ứng chính sách có mặt còn chậm, phương thức lãnh đạo, quản
lý chưa thật phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao…
Để
bảo đảm nền kinh tế phát triển bền vững, thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới mạnh
mẽ hơn phương thức quản lý nhà nước về kinh tế, khai thác hiệu quả các hiệp định
thương mại tự do, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền
tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét