Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở, nền tảng quan trọng trong phát huy
toàn diện sức mạnh trí tuệ, sự sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự tôn,
tự hào dân tộc, là động lực lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Gìn giữ và phát huy giá trị truyền thống đại đoàn kết vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
là nhiệm vụ lớn lao và vinh quang của toàn thể cán bộ, nhân dân, của toàn hệ
thống chính trị.
Quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
“Đoàn kết là
truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta
mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến
lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam”(1). Hàng nghìn năm
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã khẳng định, khi đất nước đứng
trước tình thế, hoàn cảnh gian lao, thử thách mang tính bước ngoặt, “nếu biết
khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ
đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, thì con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, phong
ba bão táp, để cập bến bờ vinh quang”. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc là chủ trương xuyên suốt, thống nhất của Đảng ta, được thể hiện trực
tiếp trong nội dung nhiều văn kiện, nghị quyết, quyết định, chỉ thị qua các
thời kỳ cách mạng. Đến nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng
cố vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển mạnh mẽ, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Trong giai đoạn
mới, Đảng ta xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất
nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc”. Nhìn chung, việc phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị trong xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc được biểu hiện trực tiếp ở việc nâng cao
vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, cụ thể:
Một là, Đảng
Cộng sản Việt Nam là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Theo đó, yếu tố “quyết định thành công của sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tiếp tục tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch,
vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Thời
gian qua, tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị được đổi mới, tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; chú trọng hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống
chính trị, khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý nhằm hoàn thiện thể chế, bảo đảm
đồng bộ, liên thông giữa quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức
bộ máy; phương thức lãnh đạo, năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch
định đường lối, chủ trương được đổi mới.
Hai
là, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc
phát huy tốt sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì
nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”; đồng thời, nhấn mạnh mọi
chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân và “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu”. Mặt khác, Nhà nước phải không ngừng “cải thiện toàn diện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân” và luôn vì mục tiêu “phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn”.
Ba
là, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội không ngừng đổi mới, sáng tạo,
đa dạng hóa phương thức vận động quần chúng, coi trọng các phong trào thực
tiễn, hạn chế việc ra nhiều nghị quyết, chỉ thị, chỉ đạo điều hành chung chung;
phương thức vận động các giai tầng trong xã hội, đặc biệt là đối với đồng bào
theo tôn giáo, đồng bào dân tộc thiểu số và người Việt Nam ở nước ngoài được
đổi mới; chủ động nghiên cứu, xây dựng, đề xuất chính sách đối với người Việt
Nam ở nước ngoài để thu hút, huy động mọi nguồn lực cho phát triển.
Về phát
huy vai trò nòng cốt, quyết định của quần chúng nhân dân trong xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc
Thực tiễn cho thấy, mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng thắt chặt mối quan hệ
mật thiết với nhân dân, xác định mục tiêu hạnh phúc, ấm no của nhân dân là bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa trên quan điểm xây dựng “các cơ chế, chính
sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt
Nam”. Thời gian tới, cần tập trung nghiên cứu, điều chỉnh một số nội dung,
giải pháp nhằm nâng cao vai trò của quần chúng nhân dân trong xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, cụ thể:
Một là, xác định rõ hơn vị trí, vai trò, bản chất của giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay (giai cấp sản xuất của cải vật chất cơ bản cho xã hội,
nơi tập hợp trí tuệ, ý chí giải phóng toàn thể dân tộc, đất nước mỗi khi bị áp
bức; giai cấp tiên tiến, đi đầu trong sự nghiệp phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc). Mặt khác, phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong bối cảnh
chuyển đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, phát triển
kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh hay tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiện
nay. Đặc biệt, không ngừng nỗ lực xây dựng chính sách nhằm giải quyết tốt lợi
ích của nhân dân trong nhiều vấn đề, như thu hồi đất sản xuất, đầu tư nguồn lực
cho nông nghiệp, giải quyết lao động; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần
hoàn, nông thôn sinh thái, đô thị hiện đại,...
Hai là, phát huy vai trò, năng lực của đội ngũ trí
thức; tập trung đầu tư giáo dục để hình thành đội ngũ trí thức đủ tâm, đủ tầm,
có bản lĩnh,... góp phần thúc đẩy tinh thần đổi mới, sáng tạo, tạo chuyển biến
tích cực trong tư duy phát triển và quản trị quốc gia. Cần ban hành các nghị
quyết, chỉ thị, quyết định mới về chế độ, chính sách hỗ trợ, đãi ngộ nhằm thu
hút, phát huy vai trò đội ngũ trí thức trong bối cảnh mới; đẩy mạnh đầu tư phát
triển khoa học - công nghệ hiện đại, phục vụ đổi mới sáng tạo. Phát huy vai trò
tư vấn, phản biện, tham mưu chủ trương, chính sách của đội ngũ trí thức.
Ba là, chú trọng phát triển đội ngũ doanh nhân vì
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế
của Việt Nam theo tinh thần xây dựng “đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng
và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo
đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”. Xây dựng Chiến lược quốc
gia phát triển đội ngũ doanh nhân đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tạo hành
lang pháp lý và môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, an toàn để
doanh nhân phát triển(13).
Bốn là, tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống, văn hóa, bồi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào, tự
tôn dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; tạo mọi điều kiện để mỗi
cá nhân phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá
trị thẩm mỹ,... Chăm lo xây dựng, bảo vệ quyền lợi và phát huy vai trò của
người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới. Bên cạnh đó, coi trọng, ghi nhớ
công lao, đóng góp của các thế hệ cán bộ lão thành cách mạng, cựu chiến binh,
cán bộ hưu trí, người cao tuổi trong xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò của cựu chiến binh trong giáo
dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, phát huy bản chất,
truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tham gia xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, góp
phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tích cực giúp
nhau làm kinh tế, cải thiện, nâng cao đời sống, làm giàu hợp pháp, góp phần xây
dựng, phát triển đất nước. Mặt khác, tích cực tiếp thu, phát huy trí tuệ, kinh
nghiệm sống, lao động, học tập,... của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng
và gia đình.
Năm là, bảo đảm sự bình đẳng, công bằng giữa các
dân tộc, kiên định mục tiêu đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Quan tâm tới tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch
định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc; phòng, chống tư tưởng kỳ thị dân
tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục vận động, đoàn kết, tập
hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp
tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Sáu là, khơi dậy mọi tiềm năng, sức sáng tạo của
mỗi người dân Việt Nam góp phần để xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Bên
cạnh đó, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các chính sách nhằm xác lập địa vị pháp
lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập với xã hội nước sở tại
cho người Việt Nam ở nước ngoài; nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự trọng, tự tôn dân
tộc; động viên đồng bào hướng về đất nước. Đẩy mạnh vận động người Việt Nam ở
nước ngoài, nhất là thế hệ trẻ, gắn bó với quê hương, trở thành cầu nối giữa
Việt Nam với các nước(15).
Những giải
pháp, nhiệm vụ để phát huy hơn nữa vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm
xây dựng đất nước ngày càng giàu, mạnh, văn minh
Thứ nhất, chủ động, tích cực đẩy mạnh
công tác thông tin, tuyên truyền, quán triệt sâu rộng chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về công tác xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm và hành động của cơ
quan, tổ chức, đơn vị (nhất là cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, người
đứng đầu, đảng viên, cán bộ, công chức,...). Nâng cao hiệu quả và tiếp tục đổi
mới, chú trọng đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác dân vận (về con người, nguồn
lực, phương tiện,...) để sẵn sàng “đi trước một bước”, làm cho nhân dân hiểu,
nhân dân tin, nhân dân ủng hộ theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” để ý Đảng luôn hợp lòng dân.
Thứ hai, phát huy tiềm năng, sức mạnh của nhân tố
con người, khơi dậy khát vọng, tinh thần và ý chí phát triển, lòng yêu nước,
niềm tự hào, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận toàn dân tộc. Chú
trọng phát huy giá trị văn hóa, tính tích cực chính trị, năng lực lao động,
cống hiến, đổi mới sáng tạo của con người Việt Nam; nâng cao ý chí tự lực, tự
cường trong mỗi người dân trước vận mệnh và tương lai của đất nước. Coi trọng
việc phát huy động lực, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, ưu tiên cho các lĩnh vực then chốt; tập trung nâng cao, tạo bước
chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục - đào tạo, đẩy mạnh chuyển giao ứng
dụng và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; xây dựng chính sách
mới có tính đột phá hơn để thu hút, sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ người tài....
Thứ ba, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân trên tất cả lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế - xã hội đến chính trị, văn
hóa,...; xây dựng hình thức thích hợp để nhân dân tham gia ý kiến; tổ chức chu
đáo, thiết thực việc lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân, bảo đảm để nhân dân được
thẳng thắn bày tỏ ý kiến đóng góp; khuyến khích trao đổi, tranh luận với tinh
thần xây dựng về những vấn đề có ý kiến khác nhau. Giải quyết tốt nhiệm vụ kiểm
soát trong thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”... Đồng thời, cần khắc phục mọi biểu hiện “vi phạm dân chủ”, “coi nhẹ dân
chủ” hoặc “dân chủ hình thức”; phát huy dân chủ, đề cao pháp luật, kỷ luật, kỷ
cương trong toàn xã hội; tăng cường giám sát, tổng kết thực hiện nghị quyết,
chỉ thị.
Thứ tư, giải quyết hài hòa, thống nhất về lợi ích
cơ bản, chủ yếu giữa các giai cấp, tầng lớp, giữa các vùng, miền, giữa các dân
tộc, tôn giáo nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong toàn xã hội. Lợi ích
đó phải được thể hiện qua mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chú trọng bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân. Theo đó, trong mọi quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước phải lấy lợi ích của nhân dân làm cơ sở, cần đem
“tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân” và phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Thứ năm, đấu tranh chống các âm mưu chia rẽ, phá
hoại khối đoàn kết toàn dân tộc. Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động,
phần tử cơ hội chính trị dùng mọi thủ đoạn thâm độc hòng thực hiện âm mưu “chia
để trị”; chúng tìm mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng những
thủ đoạn, chiêu bài tinh vi, thâm độc hòng phá hoại đất nước ta từ bên trong.
Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên kích động nhân dân, thổi
phồng, khuếch đại các vấn đề “nhạy cảm” trong xã hội; lợi dụng cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, những yếu kém trong quản lý của các cấp chính quyền ở
một số nơi; thực hiện những chiêu trò đánh lạc hướng dư luận,... hòng khiến
người dân từ nghi ngờ, dẫn đến mất lòng tin vào Đảng, chế độ, làm suy giảm tinh
thần cách mạng của nhân dân. Do đó, cần đặc biệt chú trọng, nâng cao tinh thần
cảnh giác, trách nhiệm công dân, sự đồng thuận xã hội, ý thức, trách nhiệm cộng
đồng, tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chống mọi biểu hiện tư tưởng
hẹp hòi, cục bộ, chủ nghĩa cá nhân,... để không ngừng củng cố và phát triển
khối đại đoàn kết toàn dân tộc./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét