Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia là ba nước
láng giềng gần gũi, cùng trên bán đảo Đông Dương, khu vực hạ lưu sông Mê Công,
có chung đường biên giới trên bộ và trên biển. Quan hệ đặc biệt giữa ba nước
Việt Nam – Lào - Cam-pu-chia bắt nguồn từ cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân, giành độc lập dân tộc, được vun đắp và phát triển qua các thời kỳ đấu
tranh cách mạng. Đó là tình đoàn kết thủy chung, là niềm tin về lòng chân
thành, trong sáng mà ba dân tộc dành cho nhau, là sự giúp đỡ hết lòng để thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển
của ba dân tộc.
Thực tiễn đời sống quan hệ quốc tế cho
thấy, các quốc gia đều dành sự quan tâm thỏa đáng trong việc xử lý mối quan hệ
với các nước láng giềng có chung đường biên giới. Bởi đây là mối quan hệ tác
động trực tiếp đến vấn đề bảo đảm ổn định an ninh, chính trị và sự phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi nước.
Quan hệ giữa các nước láng giềng, khu vực
luôn là một trong những mối quan hệ quan trọng, nhưng cũng mang tính phức tạp
và nhạy cảm. Mặc dù có những nét tương đồng về lịch sử, văn hóa và sự chia sẻ
những giá trị chung trong cùng môi trường sinh thái, vị trí địa - chiến lược...
song trên thực tế, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, mối quan hệ
giữa các nước láng giềng cũng phát sinh một số vấn đề, nên xử lý thiếu khôn
khéo có thể dẫn đến những hệ lụy khó lường, tác động không nhỏ đến sự ổn định
và phát triển của nhiều quốc gia. Chính vì thế, để có một môi trường hòa bình
và ổn định, tạo điều kiện cho sự phát triển của đất nước, vấn đề đặt ra đối với
các quốc gia trước hết là phải xây dựng được mối quan hệ hợp tác, hữu nghị, hòa
bình với các nước láng giềng khu vực.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề
này, trong quá trình đổi mới tư duy đối ngoại theo hướng rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng quan
hệ hợp tác với các nước láng giềng, đồng thời xác định rõ, đây là vấn đề chiến
lược, tác động trực tiếp đến lợi ích quốc gia - dân tộc; tác động đến sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1986, Đại hội VI của Đảng đánh dấu bước chuyển
biến mạnh mẽ trong đổi mới tư duy, cách tiếp cận để xem xét các vấn đề thời
đại, giải quyết tổng thể các vấn đề trong nước để có thể linh hoạt xử lý trước
những biến đổi nhanh chóng của tình hình khu vực và thế giới, vì một mục tiêu
chung là bảo đảm ổn định, phát triển. Theo đó, Đại hội VI của Đảng xác định
nhiệm vụ “phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông
Dương,... hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy
luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em... Việt Nam trung thành
với nghĩa vụ quốc tế của mình đối với cách mạng Lào và cách mạng Cam-pu-chia(1). Đặc
biệt, sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, trật tự
thế giới thay đổi đã tác động mạnh đến môi trường khu vực và quốc tế. Trong bối
cảnh đó, quan hệ với các nước láng giềng tiếp tục được Đảng ta quan tâm và coi
đó là một trong những ưu tiên hàng đầu. Tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta
tiếp tục nhấn mạnh “Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu
nghị đặc biệt giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân
dân Cam-pu-chia anh em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo
nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của
nhau. Trong văn kiện các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo, quan hệ với
các nước láng giềng tiếp tục được khẳng định là một trong những ưu tiên
hàng đầu. Từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối
tác tin cậy”, “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế”, đến từng bước chuyển sang định hướng đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển,
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”; “Việt Nam là bạn, là đối tác tin
cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, đặc
biệt Đảng ta nhấn mạnh: “Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền
thống với các nước láng giềng”. Định hướng ưu tiên mà Đảng đề ra
trong quan hệ với các đối tác là các nước láng giềng, các đối tác lớn, đối tác
quan trọng, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cần phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị
truyền thống; thúc đẩy quan hệ với các đối tác phát triển, có tiềm lực lớn,
phục vụ thiết thực cho mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngay từ khi bước vào công cuộc đổi mới,
Việt Nam đặc biệt coi trọng vấn đề cải thiện quan hệ với các nước láng giềng,
trong đó xác định giải quyết vấn đề Cam-pu-chia là một điểm “đột phá” vừa góp
phần tạo dựng môi trường quốc tế hòa bình, ổn định ở khu vực, vừa tạo điều kiện
thuận lợi phát triển đất nước. Vì vậy, Việt Nam tích cực phối hợp với Chính phủ
Cộng hòa Nhân dân Cam-pu-chia nhằm thúc đẩy đối thoại giữa các bên hữu quan,
nhanh chóng tìm kiếm một giải pháp mà các bên có thể chấp nhận được. Ngày
23-10-1991, Hiệp định hòa bình Pa-ri được ký kết đưa đến giải pháp chính trị
cho vấn đề Cam-pu-chia. Đây là một thắng lợi của Đảng ta trong quá trình triển
khai chính sách đối ngoại với các nước láng giềng, tạo điều kiện thuận lợi góp
phần đưa Việt Nam thoát khỏi sự bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ hợp tác
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Việc tạo lập được mối quan hệ hợp tác với
các nước láng giềng dựa trên cơ sở tùy thuộc lẫn nhau về an ninh và phát triển
là một bảo đảm hết sức quan trọng nhằm xác lập được vị thế có lợi, giảm thiểu
được những bất lợi trong quan hệ của Việt Nam với các nước, góp phần giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định trong sự nghiệp đổi mới và nâng cao vị thế của đất
nước. Trên cơ sở đó, Việt Nam từng bước chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng
với khu vực và thế giới, tạo dựng thế và lực mới cho đất nước phát triển bền
vững hơn trong tương lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét