Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 30 tháng 10, 2023

NVG40 - KẺ THÙ TRONG LÒNG TA MỚI LÀ KẺ THÙ NGUY HIỂM NHẤT !!!!

 

V.I.Lênin từng nói: “Không có kẻ thù nào, dù là hung bạo nhất, có thể chiến thắng được những người cộng sản, ngoại trừ chính họ tự tan rã, chính những lỗi lầm của họ và họ không kịp sửa chữa”. Đó có thể xem như là “lời di chúc” cho tất cả những người Cộng sản trên toàn thế giới phải luôn tự răn mình, để thường xuyên tự đổi mới, tự chính đốn; để kiên quyết loại trừ những con người nhạt phai lý tưởng, “tự diễn biến” và dẫn đến tự chuyển hóa.

Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu có rất nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân cơ bản nhất, là gốc rễ của sự sụp đổ của “người anh cả của CNXH” lại xuất phát từ chính “kẻ thù nội tại” là sự “tự diễn biến” và dẫn đến “tự chuyển hóa” và sụp đổ; cần lưu ý rằng Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo, Liên Xô tan rã mà không thông qua một cuộc chiến tranh với chủ nghĩa đế quốc.

Đối với Việt Nam chúng ta, trong nhiều năm qua và nhất là giai đoạn hiện nay, thì kẻ thù đáng sợ nhất, nguy hiểm nhất, khó chiến thắng nó nhất lại chính là những kẻ thù ngay trong lòng ta, kẻ thù giấu mặt, những thứ “giặc nội xâm”. Những loại này nằm lẩn khuất trong đội ngũ, rình rập trong chính mỗi người, nếu chúng ta mất cảnh giác hoặc do dự, ngập ngừng hay dao động, hay thiếu kiên quyết. Nguy hiểm hơn là rất khó nhận biết chúng, vì chúng biến ảo khôn lường: Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng và đặc biệt là “chủ nghĩa quay giáo, trở cờ”… được ngụy trang, trá hình dưới muôn vàn màu sắc và “giặc nội xâm cần phải xác định là kẻ thù nguy hiểm nhất của chúng ta, cần phải nhận diện đúng để có kế sách đối phó, bảo đảm chiến đấu và thắng lợi trước chúng.

Hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những người giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với các biểu hiện khác nhau như: Thờ ơ, dao động về tư tưởng chính trị, bàng quan trước vận mệnh của Đảng, của dân tộc, trước khó khăn của đất nước, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc; phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu niềm tin vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Một số cán bộ, đảng viên, trong đó có người trước đây từng giữ cương vị, trọng trách trong các cơ quan đảng, chính quyền có những ý kiến lệch lạc, nhìn nhận phê phán lịch sử thiếu khách quan, toàn diện, đòi đa nguyên, đa đảng, công khai đả kích, phủ nhận những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, cộng tác với thế lực thù địch, phản bội lại lợi ích dân tộc.

Để chủ động đấu tranh, xử lý triệt để, có hiệu quả loại giặc này, theo lão nông cần có sự đoàn kết, chung tay, góp sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân:

1. Kiên quyết cắt bỏ những khối ung nhọt trên cơ thể của ta, dù rất đau đơn nhưng đó là việc cấp bách nên làm và phải làm để về lâu về dài chúng ta có một cơ thể khỏe mạnh, đủ sức đề kháng trước mọi loại “vi trùng, vi khuẩn”. Đưa bọn “giặc nội xâm” vào nung trong lò “đốt suy thoái” của Đảng ta, không kể chúng là ai, giữ chức vụ gì.

2. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị nước ta. Vì, những biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ là nguy cơ rất khó lường, đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

3. Tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng: Cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân về âm mưu, thủ đoạn, chiêu bài chống phá của các thế lực thù địch.

4. Cổ nhân có câu: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, có nghĩa là nghĩa là: nước nhà lúc hưng thịnh hay lúc suy vong, một người dân thường cũng phải có trách nhiệm lo lắng cho vận mệnh đất nước; có nghĩa là “phải khoan thư sức dân”, gần gũi với nhân dân, khơi gợi tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc của người dân để tạo thành sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là mấu chốt của mọi sự thành bại trong lịch sử dựng nước và giữa nước của dân tộc ta và ngay trong thời đại Hồ Chí Minh thì tinh thần ấy được thể hiện càng rõ nét hơn; dưới chủ trương “đại đoàn kết” của Đảng và Bác Hồ thì Đảng gắn bó máu thịt với dân, vì dân quên mình, vì dân mà chiến đấu hy sinh; dân tin tưởng và ủng hộ tuyệt đối vào Đảng, đó là cuội nguồn của mọi thắng lợi.

5. Kiên quyết diệt giặc nội xâm; đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ sẽ triệt tiêu được “mảnh đất mầu mỡ”, triệt được cái cớ để các thế lực thù địch, bọn phản động vin vào để chống phá ta.

 

NVG40 - "TRÌ QUỐC" VÀ LÒNG DÂN, VẬN NƯỚC

 

Xưa, ông cha ta đúc kết: Trị quốc là việc dễ, trì quốc mới khó!

Trì quốc là giữ nước, là việc không chỉ của một số ít người nắm quyền binh, mà còn là của chính trăm họ, của muôn dân.

Thời nào đất nước phú cường, vua sáng, cơ nghiệp vững như bàn thạch thì đều do triều đình biết tựa vào lòng dân mà giữ nước. Lòng dân yên thì vận nước mới lên. Ngược lại, khi lòng dân oán thán, thì mạt lộ không xa. Cứ đem lòng dân mà đo vận nước thì luôn chính xác. Nếu số ít những người cầm quyền chỉ lo giành giật điều có lợi cho riêng mình, mà gây thiệt hại cho quảng đại dân chúng, thì đấy sẽ là đầu mối của sự loạn lạc.

Trì quốc là lòng dân tự phục, quy về một mối, trọng dân, dân là chủ thể. Trì quốc là để nước thịnh, lấy chính sức dân, trí dân mà làm giàu cho dân, cho nước.

Khi binh biến, để chống giặc ngoại xâm, sức mạnh vô địch của muôn dân luôn được phát huy. Thời bình, lại càng phải dựa vào sức mạnh của trăm họ để bồi đắp nguyên khí, nội lực quốc gia; dựa vào tai mắt của dân để chống “giặc nội xâm” tham ô, biển thủ công quỹ, tham nhũng... Những giai đoạn thịnh trị đều có những hình luật hết sức nghiêm khắc xử lý hành vi tham ô, tham nhũng, biển thủ công quỹ, bởi những hành vi đó đều bị coi là trọng tội. Phàm kẻ mắc các trọng tội này, án tử treo trước mặt! Người xưa cũng áp dụng tiền dưỡng liêm để người làm quan không tơ hào của công, không làm việc khuất tất, tự gột rửa lòng mình, giữ thân liêm khiết, gắng gỏi việc công, yêu thương và giúp dân yên nghiệp...

Công cuộc phòng, chống tham nhũng đang được Đảng ta đẩy mạnh hiện nay cũng là một nhiệm vụ trì quốc, đang được toàn dân đồng tình và tích cực tham gia. Lòng dân tiếp tục quy tụ bên Đảng, đó là chỉ báo về thế nước đang lên!

Trì quốc thì trước hết phải giữ nghiêm kỷ cương trong Đảng. Kỷ luật của Đảng là “kỷ luật thép”, cán bộ, đảng viên bất kể ở cương vị nào, nếu phạm tội, nhất là tội tham ô, tham nhũng đều phải bị xử lý theo pháp luật. Giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng thì mới giữ vững kỷ cương trong xã hội. Kỷ luật đảng vừa thể hiện tính nghiêm minh, tinh thần tự giác cao độ, vừa mang tính dân chủ, nhân đạo sâu sắc. Những ai “trót ít nhiều nhúng chàm rồi thì sớm tự giác tự gột rửa”, như lời cảnh tỉnh của Tổng Bí thư tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 6 khóa XII.

Công tác phòng, chống tham nhũng được Đảng, Nhà nước ta ngày càng tăng cường hơn với những giải pháp căn cơ, sâu xa mang tính phòng ngừa, như minh bạch hóa nền kinh tế bằng quy định dần thanh toán mọi giao dịch qua ngân hàng, tiến tới loại bỏ nền kinh tế tiền mặt; thực hiện cải cách tiền lương để cán bộ, công chức, viên chức và người lao động sống được bằng chính sức lao động chính đáng của mình, hạn chế những phát sinh tiêu cực...

Vừa tròn 5 năm Đảng ta sơ kết Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03-6-2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, càng thấy, ở bất kỳ giai đoạn lịch sử và thời kỳ nào của cách mạng, công tác dân vận cũng có tầm quan trọng chiến lược. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Lòng dân chính là hàn thử biểu, là thước đo uy tín của Đảng. Nhưng dân vận không phải là những lời nói suông, dân vận là hành động, là “miệng nói - tay làm”, “làm nhiều hơn nói”. Những kết quả của công cuộc phòng, chống tham nhũng và những chuyển biến tích cực của nền kinh tế đất nước hiện nay chính là những minh chứng sống động và thuyết phục hơn cả đối với người dân cả nước về việc trì quốc của Đảng ta.

Người dân tin tưởng, trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, Đảng ta ngày càng bền gan vững chí, chân cứng đá mềm!

Chặng đường phía trước còn nhiều khó khăn, nhưng khi toàn dân đồng lòng bên Đảng, “ý Đảng lòng dân” là một, thì không một khó khăn nào có thể cản nổi thế đi lên và tiền đồ tươi sáng của đất nước./.

 

 

NVH41 - Việt Nam không tham gia liên minh quân sự là chính sách quốc phòng đúng đắn

 

Phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một trong những lĩnh vực trọng yếu của công tác tư tưởng – văn hóa nhằm bảo vệ vững chắc chế độ và an ninh quốc gia. Đây là vấn đề không mới nhưng luôn mang tính thời sự, đòi hỏi sự vào cuộc tích cực, kiên quyết, kiên trì của cả hệ thống chính trị.

Từ năm 1991 đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, trong đó có công tác đấu tranh tư tưởng. Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia đã thể hiện rõ quan điểm, mục tiêu, chủ trương, nhiệm vụ trong văn kiện các Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001), Đại hội X (2006), Đại hội XI (2011),  Đại hội XII (2016) và Đại hội XIII (2021). Trong các nhiệm kỳ Đại hội, Đảng ta ban hành một số Nghị quyết chuyên đề về lĩnh vực quan trong này như Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”.

Chỉ đạo công tác đấu tranh tư tưởng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Những luận điệu của các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị... tuy không có gì mới, nhưng nó được tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” 

Đặc biệt, trước các hoạt động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động cùng những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới (Nghị quyết 35).

Nghị quyết 35 nhấn mạnh: Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân;.. của cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên,..

Chính vì vậy, việc nhận thức đúng về chính sách quốc phòng- không liên minh quân sự và phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề này là rất cấp thiết trong tình hình hiện nay nhằm góp phần bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 25/11/12019, Việt Nam công bố Sách trắng Quốc phòng 2019, được bổ sung, phát triển chính sách quốc phòng công bố 2009, công khai toàn bộ những vấn đề cơ bản của quốc phòng Việt Nam; trong đó, xác định: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. Chính sách này được nhiều nước và dư luận quốc tế ủng hộ, đánh giá cao; phản ánh tinh thần trách nhiệm của Việt Nam góp phần vào củng cố hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.


Tuy nhiên, trong thời gian qua, các thế lực thù địch đã công kích, xuyên tạc chính sách quốc phòng – không liên minh quân sự của Đảng, Nhà nước ta. Đặc biệt, chúng còn nêu những “đề xuất”, “kiến nghị” đòi thay đổi chính sách quốc phòng của Việt Nam.

1.Nhận diện các quan điểm sai trái, xuyên tạc chính sách bốn không của các thế lực thù địch

Về nội dung

Những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch về chính sách không liên minh quân sự của Việt Nam. Các thế lực thù địch cho rằng, chính sách “không liên minh quân sự là tự trói mình không chỉ dẫn đến mất lãnh thổ, đe dọa đến an ninh tổng thể của Việt Nam. Họ cho rằng, Việt Nam cần liên minh với một nước lớn như: Mỹ, Nga, Nhật,.... thì sẽ được sự hỗ trợ tối đa về quân sự, vũ khí, lực lượng quân đội đến trợ giúp bảo về chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia.

Các thế lực thù địch cho rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng không liên minh quân sự thì chúng ta dễ bị cô lập trước những tình huống nguy hiểm.

          Về bản chất của các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch

          Có thể nói, không thuần túy là kêu gọi liên minh quân sự cho Việt Nam, mà mục đích sâu xa là kích động dư luận xã hội gây áp lực với Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm tạo nên những bất ổn, tiêu cực về quốc phòng, an nin, gây mất ổn định chính trị, phá vỡ nền hòa bình, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó mới chính là mục đích thực sự chúng.

          2. Luận cứ phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng – “không liên minh quân sự” của Việt Nam

          Thứ nhất, Xét về tính hai mặt của vấn đề liên minh quân sự với nước khác.

Khái niệm: Liên minh quân sự là sự liên kết hoạt động quân sự giữa hai hoặc nhiều nước hay tập đoàn chính trị trên cơ sở thống nhất về mục đích và lợi ích. Liên minh quân sự có thể tổ chức thành khối quân sự hoặc chỉ là đơn vị chiến đấu chung. Tùy thuộc vào mục đích chính trị, liên minh quân sự có thể là tiến bộ hay phản động, tự vệ hay xâm lược. Nhân loại đã từng biết đến nhiều kiểu loại và cấp độ liên minh quân sự khác nhau: Có liên minh nhằm bảo vệ hòa bình, tự vệ, chống xâm lược; có liên minh để xâm lược, nô dịch quốc gia khác; có liên minh giữa các lực lượng, các dân tộc hoặc giữa các quốc gia, các khu vực; có liên minh ở dạng gián tiếp, hỗ trợ, răn đe; có liên minh dạng trực tiếp tham chiến. Ngoài ra, còn có cả liên minh quân sự dựa trên sự hòa hoãn tạm thời, thậm chí trong một số tình huống cụ thể, liên minh còn là “vỏ bọc” để nước này bất ngờ tấn công một nước khác.

Chúng ta thấy rằng, không liên minh quân sự là chủ trương đúng đắn, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Đó là cơ sở quan trọng để chúng ta đấu tranh bác bỏ ý kiến sai trái kêu gọi Việt Nam phải liên minh quân sự để bảo vệ Tổ quốc.

Xét về tính hai mặt của vấn đề liên minh quân sự, mặt tích cực, liên minh quân sự có thể làm gia tăng sức mạnh quân sự, quốc phòng; tạo sự chuyển hóa về thế trận và lực lượng quân sự trên chiến trường để thực hiện các chiến lược chiến tranh hay chiến dịch quân sự cả trong tiến công và phòng ngự; tạo thêm uy tín, vị thế và sức mạnh cho quốc gia tham gia liên minh.

Tuy nhiên, xét về mặt tiêu cực, liên minh quân sự trực tiếp khiến căng thẳng gia tăng, làm xuất hiện tình trạng đối đầu giữa các nước trong và ngoài liên minh, nhất là khi giữa các nước, các khối quân sự vốn có những mâu thuẫn về lợi ích. Khi hai quốc gia cùng tham gia một liên minh có thể bị một nước thứ ba coi đó là hành động thù địch và hệ quả rất khó lường. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc các nước, các khối quân sự công khai hoặc ngầm gia tăng tiềm lực, thực lực, chạy đua vũ trang, tăng cường sự hiện diện quân sự, đẩy mạnh các hoạt động khiêu khích, tạo cớ; kéo quốc gia, khu vực và cả nhân loại đến gần hiểm họa chiến tranh. Ngoài ra, nếu tham gia liên minh quân sự có thể dẫn đến nguy cơ bị tấn công bất ngờ bởi chính các đồng minh nếu chủ quan, lơ là, mất cảnh giác. Trong khi thực tế không có nước nào chấp nhận hy sinh lợi ích của dân tộc mình vì lợi ích của nước khác, kể cả nước đó là đồng minh chiến lược của mình. Thêm nữa, nguyên nhân dẫn đến xung đột, leo thang quân sự ở nhiều nơi trên thế giới xuất phát từ việc chính phủ và người dân ở những nơi này không đề cao nguyên tắc độc lập dân tộc, quyền tự quyết của quốc gia, mà lại trông chờ sự cứu giúp của các lực lượng bên ngoài. Đằng sau sự giúp đỡ tưởng như vô tư đó là hàng loạt toan tính, mưu đồ, tham vọng về lợi ích, quyền lực của các cường quốc.

Thứ hai, sức mạnh của bảo vệ Tổ quốc của một dân tộc không phải dựa vào liên minh quân sự mà phải dựa vào sức mạnh dân tộc đoàn kết, có nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh độc lập, tự lực, tự cường.

Lịch sử đã chứng minh, Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược bởi chúng ta có một thứ “vũ khí” vô cùng quan trọng, đó là nhân tố chính trị - tinh thần to lớn, lòng yêu nước nồng nàn với niềm tin bất duyệt “toàn dân là lính” của dân tộc.

Có thể nói, Việt Nam xây dựng nền quốc phòng dựa trên sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, lấy sức mạnh nội lực của dân tộc là chính, coi trọng xây dựng nhân tố chính trị, tinh thần, sự đoàn kết thống nhất, cả nước đồng lòng, toàn dân một ý chí. Đó chính là việc quy tụ “ý Đảng, lòng dân”, xây dựng “thế trận lòng dân”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Phát huy sức mạnh chính nghĩa thống nhất với bản chất tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và lòng nhân ái, khoan dung của người Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là một minh chứng điển hình cho việc phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Hiện tại, chúng ta thấy được mối nguy hại khi dựa vào liên minh quân sự từ cuộc chiến của Ukraina với Nga. Chiến sự xảy ra, tổng thống Volodymyr Zelensky không thể phát huy tiềm lực quốc phòng nội tại của quốc gia, mà ông trông chờ sự giúp đỡ của khối liên minh quân sự (Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương - NATO). Từ đó dẫn đến nước Ukraina thảm hại.

Qua vấn đề Ukraina hiện tại, chúng ta có quyền khẳng định sách quốc phòng của Việt Nam hoàn toàn đúng đắn, chúng ta không trông chờ vào sự liên minh sự với các quốc gia, nước lớn trên thế giới mà Việt Nam phải khẳng định được sức mạnh nội lực của một nền quốc phòng toàn dân trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Thứ ba, không tham gia liên minh quân sự, bởi quốc phòng Việt Nam mang tính chất hòa bình, tự vệ

Việt Nam kiên trì đường lối quốc phòng với mục đích tự vệ và tính chất hòa bình, chính nghĩa, tiến bộ, phù hợp với quyền cơ bản của các quốc gia theo nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.

Đồng thời, Việt Nam cũng quyết lên án, phán đối các hành động gây hấn, xung đột, chạy đua vũ trang của các nước. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tránh những va chạm không cần thiết, giữ vững quan điểm, không để các đối tượng bên ngoài kích động, thỏa hiệp với nhau để xâm phạm lợi ích quốc gia – dân tộc.

Thứ tư, Việt Nam thực hiện đường lối tăng cường hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết thách thức an ninh chung

Chính sách quốc phòng – không liên minh quân sự của Việt Nam là hoàn toàn bất biến. Tuy nhiên, tùy theo hoàn cảnh, tình hình thực tế của đất nước mà Đảng, Nhà nước ta sẽ có những chiến lược hoạch định chính sách phù hợp.

Cụ thể, “thùy theo diễn biến của tình hình và trong điều kiện cụ thể, chúng ta sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”.

Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả” để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước, giải quyết các thách thức an ninh chung, thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ quốc tế, cộng đồng, tích cực hợp tác cùng các quốc gia khác để giải quyết vấn đề an ninh chung. Đồng thời tích cực, mở rộng phạm vi, quy mô tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc,..

Nhìn chung, Việt Nam nhất quán quan điểm không liên minh quân sự nhưng tăng cường hợp tác quốc phòng, hội nhập quốc tế để có sự ủng hộ của quốc tế, không để bị bao vây, cô lập.

Chúng ta không liên minh quân sự, vì “chủ trương nhất quán của Việt Nam là thêm bạn, bớt thù. Liên minh quân sự nghĩa là anh phải gắn hẳn với một bên, có thể đối đầu với bên khác, tức là chuốc thêm kẻ thù. Việt Nam không đứng về bên nào, chỉ đứng về hòa bình, lẽ phải, công lý, pháp lý quốc tế. Bây giờ, các nước luôn đề cao lợi ích quốc gia – dân tộc, không ai đi bảo vệ thay cho nước khác. Lịch sử chiến tranh của Việt Nam đã khẳng định, chỉ khi có chính nghĩa chúng ta mới giành được thắng lợi, mà muốn có chính nghĩa thì phải giữ cho được độc lập tự chủ” 

Từ những luận cứ phản bác nêu trên, chúng ta thấy, chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp, bảo đảm vùa giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, vừa bảo được thế cân bằng trong quan hệ quốc tế, không để đất nước rơi vào tình trạng cạnh tranh, giành ảnh hưởng của các nước lớn, nhất là không để bị rơi vào thế phải liên minh với một quốc gia để chống lại quốc gia khác dẫn đến những tác động tiêu cự đến quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, Việt Nam phải tranh thủ tối đa sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong sự nghiệ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

 

NVH41 - Đấu tranh với cái nhìn phiến diện, sai lệch về chính sách quốc phòng Việt Nam

 

Trong các văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước ta đều khẳng định nhất quán chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính chất chính nghĩa, hòa bình và tự vệ. Mọi luận điệu xuyên tạc, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng chính đáng của đất nước, nhân dân Việt Nam đều phải bị lên án, bác bỏ.

Điều 4, Luật Quốc phòng chỉ rõ: “… không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 tiếp tục khẳng định: “Chính sách Quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế,…”.

Trên thực tế, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đắn chính sách quốc phòng đã đề ra với đường lối quốc phòng, quân sự độc lập, tự chủ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, tạo sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đồng thời, tích cực thực hiện cam kết trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Như vậy, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định nhất quán quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về chính sách quốc phòng phù hợp với lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc, có tính nhân văn sâu sắc; được công khai, minh bạch nhằm tăng cường sự hiểu biết, xây dựng lòng tin của các quốc gia với Việt Nam.

Song, với dã tâm thâm độc, âm mưu nham hiểm, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị không từ thủ đoạn nào để chống phá, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam. Họ sử dụng nhiều hình thức, phương tiện, như: viết tin, bài, bình luận; quay, cắt ghép, phát tán các video clip trên YouTube và livestream trên các trang mạng xã hội; núp bóng dưới chiêu trò cái gọi là “Người yêu nước”, “Chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”, phản biện “Sách trắng Quốc phòng”,... để suy diễn, bịa đặt, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam. Chúng cho rằng, chính sách quốc phòng Việt Nam đã lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp; chủ trương “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là Việt Nam đã “từ bỏ dùng vũ lực trong bảo vệ đất nước”, là “tự trói tay, chân mình”, “ tự cô lập mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn trong bảo vệ Tổ quốc, không phù hợp với tình hình thực tế, đi ngược lại xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Họ lợi dụng các điểm mới trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 để đưa ra bình luận, quy chụp thiếu căn cứ về nguyên tắc “bốn không”; đưa ra tư vấn, góp ý, kiến nghị Việt Nam thiết lập, tham gia liên minh quân sự. Xảo trá, trắng trợn hơn, chúng còn quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt, trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông tác động đến nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh biển, đảo, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, v.v. Từ đó, hô hào, cổ súy tư tưởng sai trái, kêu gọi dựa vào nước ngoài, nhất là các nước lớn và tham gia liên minh quân sự để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ đất nước.

Vậy, sự thật phía sau cái nhìn sai lệch, phiến diện, chống phá quyết liệt chính sách quốc phòng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động là gì?

Trước hết, cần khẳng định rằng, bản chất, mục đích chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động là không hề thay đổi, nhưng âm mưu, thủ đoạn, sách lược ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn.

Thứ hai, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách dẫn dắt, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc, tiến tới thay đổi chế độ chính trị, xã hội.

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; “phi chính trị hóa” Quân đội, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa, làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.

Thứ tư, kích động, gieo rắc tâm lý hoài nghi trong nhân dân, lừa bịp, dẫn dắt dư luận, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Để đấu tranh phản bác những luận điệu chống phá, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc cần Thực hiện nhất quán đường lối tăng cường hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung

Chính sách quốc phòng không liên minh quân sự không phải bất biến, cứng nhắc mà luôn có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn. Hiện tại, chúng ta hoàn toàn đủ khả năng để quản trị được tình hình an ninh, không để phát sinh xung đột và xảy ra chiến tranh; nhưng khi đất nước xảy ra nguy cơ chiến tranh thì Đảng, Nhà nước sẽ hoạch định những chiến lược, chính sách quốc phòng phù hợp. “Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, chúng ta sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Tăng cường hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả” để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước, giải quyết các thách thức an ninh chung và luôn coi đó là kế sách giữ nước từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Là một quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ quốc tế; đồng thời, tích cực hợp tác cùng các quốc gia khác để giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên. Việt Nam đánh giá cao vai trò của Liên hợp quốc trong các hoạt động giải trừ quân bị, gìn giữ hòa bình, ngăn ngừa xung đột, chạy đua vũ trang, chiến tranh; thực thi những chuẩn mực cốt lõi trong quan hệ với các nước theo luật pháp quốc tế; hoan nghênh và ủng hộ những sáng kiến nhằm ngăn chặn việc phát triển, sản xuất, tàng trữ, sử dụng các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt, chống phổ biến vũ khí hạt nhân. Việt Nam luôn nỗ lực tham gia giải quyết các vấn đề chung của khu vực, thế giới; tích cực, chủ động đóng góp nhiều sáng kiến, định hình cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh phù hợp với khả năng và lợi ích của quốc gia, nhất là với các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; mở rộng phạm vi, quy mô tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, diễn tập an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác. Coi trọng và từng bước tham gia các cơ chế quốc phòng, an ninh ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, Liên minh châu Âu (EU). Tham gia sâu rộng Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-la, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM, ADMM+).

Ở cấp độ toàn cầu, từ năm 1991, Việt Nam là thành viên của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) và từ năm 2014, Việt Nam tham gia sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Việt Nam cam kết thực hiện nghiêm túc các hiệp định, thỏa thuận đã ký kết với các nước; đồng thời, thiết lập và duy trì đường dây nóng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam với Bộ Quốc phòng các nước để trao đổi thông tin, giải quyết những vấn đề tồn đọng. Đến nay, chúng ta đã cử nhiều lực lượng (trong đó có 37 sĩ quan quân đội) tham gia các Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại Cộng hòa Trung Phi và Nam Xu-đăng; tổ chức triển khai hai bệnh viện dã chiến cấp hai (mỗi bệnh viện có biên chế gồm 63 quân nhân) tại phái bộ Nam Xu-đăng và đang tích cực chuẩn bị đội công binh để triển khai theo yêu cầu của Liên hợp quốc. Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ đối ngoại quốc phòng với trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ; đặt văn phòng Tùy viên quân sự tại Liên hợp quốc và 37 quốc gia khác; có 49 quốc gia đặt văn phòng Tùy viên quân sự tại Việt Nam(6). Việt Nam cùng các quốc gia khác tổ chức thành công nhiều đợt huấn luyện, diễn tập thực địa về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, tìm kiếm cứu nạn, chống dịch bệnh; diễn tập về an ninh hàng hải và chống khủng bố tại nhiều quốc gia, như Ấn Độ, Bru-nây, Xin-ga-po, Thái Lan; tham gia giao lưu, kết nghĩa biên cương thắm tình hữu nghị với các nước láng giềng;... Đây là những việc làm thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của Việt Nam trong ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới, nâng cao vị thế của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.

 

NVH41 - Hệ 2 – Học viện Chính trị tổ chức Hội nghị Thông báo nhanh kết quả Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

 


Chiều ngày 24/10/2023, Đảng ủy Hệ 2 – Học viện chính trị tổ chức Hội nghị thông báo nhanh kết quả Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

Tham dự Hội nghị có các đồng chí trong Đảng ủy, Ban chỉ huy Hệ 2 cùng toàn thể cán bộ, đảng viên trong toàn đơn vị. Tại Hội nghị, Đồng chí Đại tá, Thạc sỹ Trần Văn Trung – Bí thư Đảng ủy, Chính trị viên Hệ đã thông báo tới các đại biểu kết quả Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

Theo đó, từ ngày 02/10/2023 đến ngày 08/10/2023 tại Thủ đô Hà Nội, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã họp bàn, cho ý kiến về các nội dung sau: (1) Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2023, kế hoạch năm 2024; kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 3 năm 2024 - 2026 và lộ trình thực hiện chế độ tiền lương mới. (2) Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 10/6/2012 của Hội nghị Trung ương 5 khoá XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020. (3) Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. (4) Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. (5) Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. (6) Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIV, nhiệm kỳ 2026 - 2031. (7) Thành lập các tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng. (8) Công tác cán bộ. (9) Báo cáo những công việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ sau Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ đến Hội nghị Trung ương 8 và một số nhiệm vụ trọng tâm đến Hội nghị Trung ương 9 khoá XIII. (10) Báo cáo công tác tài chính đảng năm 2022.

Sau 7 ngày làm việc, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã hoàn thành chương trình đề ra. Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, tranh thủ thời cơ vượt qua mọi khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 và các năm tiếp theo; tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết và kết luận Hội nghị Trung ương lần thứ tám, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Kết thúc Hội nghị, đồng chí Đồng chí Đại tá, Thạc sỹ Trần Văn Trung – Bí thư Đảng ủy, Chính trị viên Hệ yêu cầu cán bộ, đảng viên của Hệ 2 nắm vững những nội dung cốt lõi của Hội nghị Trung ương lần thứ tám, góp phần tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo tinh thần Hội nghị./.

NVE41 - ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

 

Những năm trở lại đây, Đảng ta thực hiện quyết liệt công tác phòng, chống tham nhũng để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, các thế lực thù địch cơ hội chính trị vẫn không ngừng sử dụng các chiêu trò, luận điệu xuyên tạc về công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta.

Như thời gian qua trên trang blog Việt Nam Thời Báo, đối tượng Hiền Vương tán phát bài “ Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì bắc thang lên trời”; một trong những mục đích của chúng là cố tình thổi phồng, bóp méo và phủ nhận những thành quả đã đạt được trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhằm bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp uy tín của Đảng, Chính phủ Việt Nam và hướng lái dư luận xã hội theo suy diễn lệch lạc của chúng. Bởi vậy, cần đấu tranh và khẳng định một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, Quyết tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện ở mục tiêu, phương châm chỉ đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Về mục tiêu: Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tham nhũng, tiêu cực “là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực” và “Đây là cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”, không phải là cuộc đấu giữa các “phe cánh” hay “đấu đá nội bộ”. Bởi vậy: “Mục tiêu của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhằm làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước, để phát triển đất nước” và để cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa từ xa, từ sớm mà trọng tâm là xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, trị tận gốc tham nhũng, tiêu cực.

Về phương châm chỉ đạo: là kiên quyết, kiên trì, liên tục, bền bỉ, không nghỉ, không ngừng; không có vùng cấm, không có ngoại lệ; chủ động, tích cực, trong đó phòng là chính, là cơ bản, lâu dài, chống là quan trọng, cấp bách, theo nguyên tắc: “Có vụ việc thì phải xác minh làm rõ; tích cực, khẩn trương, rõ đến đâu xử lý đến đó, xử lý cả hành vi tham nhũng, tiêu cực và hành vi dung túng, bao che cho tham nhũng, tiêu cực, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, tiêu cực; có dấu hiệu tội phạm phải khởi tố điều tra và đã kết luận có tội thì phải truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật; vụ việc chưa đến mức xử lý hình sự thì xử lý kỷ luật nghiêm theo quy định của Đảng, Nhà nước, đoàn thể”.

Thứ hai, nhận diện âm mưu, thủ đoạn lợi dụng việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam.

Với chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch không ngừng chống phá, công kích con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trên nhiều phương diện, với nhiều thủ đoạn khác nhau.

Chúng quy chụp, ngụy biện rằng, chế độ một đảng là nguyên nhân gây ra tham nhũng. Với những suy luận thiếu logic, phi khoa học như: “Một đảng lãnh đạo sẽ không có dân chủ trong kiểm soát quyền lực”, “chỉ có tam quyền phân lập mới có thể chống được tham nhũng”… Do đó, chúng cho rằng Đảng ta sẽ không thể chống được tham nhũng vì tham nhũng là “căn bệnh nan y” xuất phát từ Đảng.

Mục đích mà các thế lực thù địch đều muốn tác động nhằm thay đổi nhận thức, niềm tin của quần chúng Nhân dân, trong đó có cả cán bộ, đảng viên vào công cuộc phòng, chống tham nhũng; từ đó lôi kéo, thành lập các tổ chức chống Đảng, Nhà nước, mục đích cao nhất là đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Kết quả của công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng ta trong suốt thời gian qua là bằng chứng đập tan những luận điệu của các thế lực thù địch.

Bởi vậy, hơn lúc nào hết, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta càng cần làm một cách quyết liệt hơn, cứng rắn hơn và với quyết tâm chính trị cao hơn. Không những khẳng định sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, làm trong sạch hệ thống chính trị mà còn cho thấy cuộc đấu tranh này được thực hiện “kiên quyết, kiên trì”, quan trọng nhất là được Nhân dân đồng tình, ủng hộ, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, cũng như đấu tranh với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

 

NVI41 - KHÔNG PHẢI “ĐU DÂY”, “GIỮ CÂN BẰNG” MÀ LÀ ĐA DẠNG HOÁ, ĐA PHƯƠNG HOÁ QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI

 

Những luận điệu của Trường Sơn đăng trên RFA Tiếng Việt và bài viết “Chính trị đu dây” từ fb Lâm Bình Duy Nhiên đăng trên Thông luận ngày 17/10/2023 và Tiengdan.news ngày 18/10/2023 khi Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao tham dự Diễn đàn cấp cao hợp tác quốc tế “Vành đai và Con đường” lần thứ ba (17 – 20/10/2023) tại Trung Quốc theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình. Thực tế, những luận điệu này cho thấy sự suy diễn, cách nhìn không khách quan về đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và chuyến công tác của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nói riêng.

Trước hết, Việt Nam không chỉ “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”, mà còn luôn thúc đẩy lợi ích quốc gia – dân tộc “trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đây là nguyên tắc bất biến và là đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đặc biệt, trên tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, Việt Nam “đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương” cũng như việc “coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thì chuyến công tác này của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng chính là tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, làm tăng độ tin cậy cũng như góp phần tích cực, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị – kinh tế quốc tế. Đây mới là sự thật, là ý nghĩa và giá trị lớn lao của chuyến công tác, chứ không phải chỉ đơn giản là Việt Nam cùng lúc thực hiện các hoạt động đối ngoại cấp cao theo chính sách ngoại giao cân bằng ảnh hưởng của các cường quốc.

Chuyến công tác của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng lần này không chỉ có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự coi trọng cao độ, ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với các đối tác chiến lược toàn diện, mà còn đồng thời thể hiện sự hoan nghênh, coi trọng Diễn đàn cấp cao hợp tác quốc tế “Vành đai và Con đường” lần thứ ba – đã trở thành một cơ chế hợp tác quốc tế lớn, có nhiều đóng góp quan trọng vào kết nối hạ tầng, liên kết kinh tế toàn cầu. Đó chính là khuôn khổ hợp tác mở bao trùm, chất lượng cao; không chỉ mang lại lợi ích thiết thực cho tất cả các bên tham gia, mà còn góp phần làm sâu sắc hơn tình hữu nghị, sự gắn kết giữa nhân dân các nước, vì mục tiêu hòa bình, ổn định, phồn vinh tại khu vực và trên thế giới.

Phải khẳng định rằng: thực chất của những luận điệu suy diễn, bẻ cong sự thật về chuyến công tác của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trong những bài viết nêu trên của Trường SơnLâm Bình Duy Nhiên đều không ngoài mục tiêu xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Sự xuyên tạc ấy chính là dùng tiểu xảo man trá kích động để chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng nói chung; phủ nhận ý nghĩa, giá trị chuyến công tác của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tại Trung Quốc nói riêng./.

 

 

NVI41 - Việt Nam kiên định chính sách quốc phòng độc lập, tự vệ, vì hòa bình, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

 

            Chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay là sự nhất quán về đường lối, chủ trương và luật pháp về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc của Đảng và Nhà nước Việt Nam; là tư tưởng quốc phòng đúng đắn, được lựa chọn và xác lập phù hợp với tình hình thực tiễn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; là sự kế thừa truyền thống, tinh hoa văn hóa dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, được nâng lên và cấu thành nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

        Việt Nam ban hành nhiều chính sách quốc phòng, là sự thể hiện tầm cao trí tuệ, đúc kết tài thao lược quân sự, quốc phòng của Đảng, Nhà nước, quân đội, phù hợp với bối cảnh quốc tế, thực tiễn đất nước, hòa bình hoặc chiến tranh, xung đột mà Việt Nam đang phải đối diện. Nhờ đó, Việt Nam không chỉ bảo vệ được toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn phá vỡ thế bao vây, cấm vận, mở đường hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, giữ vững nền hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Đảng và Nhà nước ta ban hành chính sách quốc phòng Việt Nam (1), với một số quan điểm cơ bản:  

        “Bốn không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

“Một đồng”: Đồng thời tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung.

“Một tùy”: Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp.

        Như vậy, “mẫu số chung” của chính sách quốc phòng Việt Nam là: “Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”. Điều này thể hiện một chính sách quốc phòng độc lập, tự vệ, tiến bộ và đúng đắn của Việt Nam, vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, vừa tôn trọng và hài hòa với lợi ích của các quốc gia khác và cộng đồng quốc tế.  

        “Không tham gia liên minh quân sự” là chính sách đầu tiên, chi phối và quyết định toàn bộ các chính sách quốc phòng khác của Việt Nam. Thực hiện chính sách quốc phòng nhất quán độc lập, tự chủ, Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng bằng nguồn lực mọi mặt của đất nước và con người Việt Nam; độc lập song không biệt lập, mà đồng thời (“một đồng”) chú trọng tăng cường quan hệ quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, cùng có lợi, vì hòa bình và sự tiến bộ của thế giới.

        Bởi vậy, những luận điệu cổ xúy Việt Nam “chọn phe”, “liên thủ” hoặc “liên minh” quân sự với nước khác để “gia tăng sức mạnh bảo toàn chủ quyền lãnh thổ”, cũng như đi ngược lại nguyên tắc “bốn không”, bản chất là âm mưu hòng làm suy yếu nền quốc phòng của Việt Nam, phá vỡ nguyên tắc nền quốc phòng tự chủ của một quốc gia độc lập, dẫn đến sự lệ thuộc vào các lực lượng quân sự khác, gây nên những hệ lụy to lớn ảnh hưởng tới sức mạnh, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

        Những thành tựu, cùng thực lực sức mạnh quân sự, quốc phòng của Việt Nam đã tạo tiền đề vững chắc cho sự lựa chọn, kiên định, thống nhất triển khai thực hiện chính sách quốc phòng độc lập, tự vệ, vì hòa bình; là điều kiện thuận lợi cho xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời tự nó là minh chứng đanh thép đập tan những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, kêu gọi từ bỏ chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay./.

 

NVD41 - PHÁT HUY TÍNH TIÊN PHONG GƯƠNG MẪU CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Theo Người, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên là sự “kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và Nhân dân”; “Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”. Người từng dạy, gương mẫu trong đạo đức người đảng viên chính là sự hy sinh, sự phấn đấu và cống hiến hết mình cho cách mạng, cho Nhân dân; gương mẫu phải xuất phát từ đạo đức chứ không phải là sự “đánh bóng” bản thân. Tấm gương tốt để nhìn, để soi vào chứ không phải chỉ để nghe, để viết thành tích báo cáo lên cấp trên, mà phải để cho đồng chí, đồng nghiệp và Nhân dân soi vào và làm theo.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, từ gương mẫu được dùng để chỉ những điều, những việc có tính chất tốt đẹp, điển hình, làm khuôn mẫu cho người khác noi theo; còn tiên phong nghĩa là đi đầu, dẫn đầu trong phong trào. Như vậy, có thể hiểu, người tiên phong, gương mẫu là người có nhận thức, thái độ, hành động đúng đắn và đi đầu, mở đường trong các phong trào, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội nhằm đem lại nhiều điều tốt đẹp cho cộng đồng, cho cuộc sống của Nhân dân.

Tính tiên phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên phải được thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó không thể tự nhiên mà có, mà phải do chính người cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện hằng ngày, thông qua quá trình phấn đấu không ngừng mới có được. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Người đảng viên - dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp - ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng... Mà muốn cho quần chúng hăng hái thi hành, thì người đảng viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt chước, làm theo”. Cán bộ, đảng viên phải tiền phong, gương mẫu bởi họ là những người nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vì thế “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” dẫn dắt quần chúng, trong phong trào cách mạng và trong cuộc sống hằng ngày.

Đối với người đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu là một yêu cầu khách quan, là thuộc tính cơ bản, là dấu hiệu để phân biệt đảng viên với người ngoài Đảng. Lênin đã chỉ ra rằng: “Không được lẫn lộn Đảng, tức là đội tiên phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “Cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn Nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Trong mỗi giai đoạn cách mạng, do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, do đòi hỏi thực tế lãnh đạo của Đảng và đòi hỏi của cuộc sống mà tính tiên phong gương mẫu của đảng viên có nội dung, yêu cầu và biểu hiện cụ thể khác nhau. Song, nội dung cốt lõi nhất của tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên là: có nhận thức đúng đắn, hành động dũng cảm trước những khó khăn, dám chịu trách nhiệm công việc mình làm, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, luôn luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Thực tế cho thấy, nơi nào và ở đâu cán bộ, đảng viên gương mẫu và đi đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đi đầu trong các phong trào, các hoạt động xã hội thì ở đó phong trào phát triển mạnh mẽ, đạt hiệu quả cao. Ở đâu cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, ở đó phong trào yếu kém, hiệu quả thi đua thấp.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu trước quần chúng Nhân dân. Đặc biệt, một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện biến chất, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, có tình trạng “nói không đi đôi với làm”, “nói một đằng làm một nẻo”, phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, dao động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc; không có ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc... đang gây bức xúc trong xã hội, làm mất niềm tin trong Nhân dân.

Do đó, để phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện đồng bộ những việc làm cụ thể, thiết thực như:

Trước tiên cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên về phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần quán triệt, cụ thể hóa, quy định cụ thể về tính tiên phong, gương mẫu sao cho sát hợp với chức năng, chức trách, nhiệm vụ của từng tổ chức, lực lượng và mỗi cán bộ, đảng viên trên từng cương vị công tác. Cán bộ, đảng viên phải dựa vào các quy định đó mà phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện bản thân về mọi mặt; đồng thời, tự soi, tự sửa bản thân trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện và thực hiện cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao.

Thứ hai, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhận thức đúng, đầy đủ những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, tăng cường giáo dục, rèn luyện, nâng cao ý thức giai cấp, ý thức chính trị, vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên tuân theo các vấn đề có tính nguyên tắc, như lý luận gắn liền với thực tiễn; học đi đôi với hành; nâng cao kiến thức gắn liền với củng cố, phát triển bản lĩnh, quyết tâm chính trị. Cần giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thực sự tiên phong, gương mẫu, tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; có ý thức tổ chức kỷ luật; có trình độ năng lực và phương pháp, tác phong công tác tốt; có tinh thần trách nhiệm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng và cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, kiên quyết sàng lọc, loại bỏ những người thoái hóa, biến chất ra khỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên, tập trung vào kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới./.

NVC41 - KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

 

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Đó là kết quả của quá trình tổng hợp thực tiễn, nghiên cứu lí luận, vận dụng sáng tạo quan điểm Mac Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những quan điểm, kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường của các nước trên thế giời vào điều kiện hoàn cảnh nước ta

Qua hơn 37 năm đổi mới theo mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế - xã hội Việt Nam phát triển và đạt được nhiều thành tựu đã khẳng định tính đúng đắn, tính khoa học và phù hợp với thực tiễn của đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Những thành tựu đó là sản phẩm của sự sáng tạo, là kết quả của một quá trình đoàn kết, nỗ lực, phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

MỘT SỐ THÀNH TỰU KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA

 

Song các thế lực thù địch, bọn phản động lâu nay vẫn rêu rao các quan điểm sai trái, xuyên tạc chủ trương đúng đắn này của Đảng hòng mưu toan chống phá công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Có thể nhận diện các luận điểm sai trái theo các nhóm vấn đề sau:

          Ngày 15/10/2023, trên trang blog Việt Nam thời báo, đối tượng Hiền Vương đã phát tán bài “Đảng cộng sản Việt Nam kiên trì bắc thang lên trời”, nội dung xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vu cáo đường lối của Đảng đã “sinh ra lợi ích nhóm dẫn đến thao túng thị trường”, trong đó có cả thị trường chính trị” phủ nhận những thành tựu kinh tế, xã hội mà Việt Nam đã đạt được, kêu gọi xóa bỏ Đảng, xóa bỏ chế độ.

Luận điểm trên đã bộc lộ mưu đồ đen tối là xuyên tạc đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; chúng xuyên tạc cho rằng, không có nền kinh tế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Họ còn cao giọng rằng, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; gán ghép định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường là chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục; nếu bỏ “cái đuôi” định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế đất nước còn phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Những luận điểm sai trái trên đã bộc lộ mưu đồ đen tối, rắp tâm xuyên tạc đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gây tâm lý hoài nghi, dao động, thiếu niềm tin đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân làm ảnh hưởng xấu đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong xã hội. Những lý lẽ đó cho thấy, đó là những luận điểm hết sức sai lầm, không có cơ sở cả về lý luận và thực tiễn, chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong phân tích, những nhận xét chủ quan, duy ý chí.

Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường với các hoạt động sản xuất, kinh doanh, trao đổi, tiêu dùng...chịu sự tác động các quy luật kinh tế thị trường (quy luật giá trị, cạnh tranh, cung - cầu..). Qua đó, buộc các chủ thể kinh tế trong sản xuất phải năng động, sáng tạo, hợp lý hóa tổ chức sản xuất; ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, tăng năng suất lao động...thực chất để giảm chi phí, tăng chất lượng, mẫu mã hình thức, tăng sức cạnh tranh, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, kinh tế thị trường do chạy theo lợi nhuận có những mặt tiêu cực như: Cạnh tranh không lành mạnh, cắt xén tiền công người lao động, vi phạm sở hữu trí tuệ, phân hóa xã hội, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường... Trong nền kinh tế thị trường, những người sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chạy theo lợi nhuận tối đa, luôn muốn đè bẹp đối thủ nên dẫn đến sản xuất thừa, khủng hoảng chu kỳ, phá hoại nền kinh tế, gây bất ổn xã hội. Đây là mặt trái của cơ chế tự điều tiết của thị trường trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, ngày nay nền kinh tế thị trường hiện đại phải có quản lý của nhà nước, nhằm phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường mang lại và hạn chế thấp nhất mặt tiêu cực. Cụ thể, nhiều mô hình kinh tế thị trường ở các nước tư bản phát triển như kinh tế thị trường xã hội ở Đức, kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển, kinh tế thị trường phối hợp ở Nhật Bản, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc... dù ở mức độ khác nhau, đều có định hướng xã hội, như phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng xã hộị.

Ở Việt Nam, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng tuân theo các quy luật thị trường, Nhà nước tạo khung khổ pháp luật cho cạnh tranh; bảo vệ, thúc đẩy, tôn trọng cạnh tranh lành mạnh; ngăn ngừa, hạn chế độc quyền cản trở cạnh tranh và chống lại các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh; điều tiết và giải quyết các thất bại của thị trường; khắc phục những mất cân đối lớn, khủng hoảng chu kỳ do tự điều tiết của cơ chế thị trường gây ra;. Định hướng xã hội chủ nghĩa ở đây phải được hiểu là nhằm phát huy tốt nhất những mặt tích cực của kinh tế thị trường, hạn chế tối đa mặt tiêu cực để phát triển kinh tế - xã hội phục vụ nhân dân. Đồng thời, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Công sản Việt Nam lãnh đạo, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước, nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, bảo đảm cho mọi người dân đều được bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện phát triển, được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển. Đây cũng là mục đích cao nhất của nhân dân và toàn thể dân tộc. Do đó, kinh tế thị trường mà Đảng và Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng, phù hợp với các quy luật phát triển, là xu hướng tiến bộ, văn minh của xã hội loài người. Thành tựu to lớn của đất nước ta sau hơn 37 đổi mới đã chứng minh rằng quan điểm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội của nghĩa của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. 

Vì vậy, những luận điểm sai trái về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là những quan điểm chủ quan, không có cơ sở cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao nhận thức và đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, trong tình hình mới...nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

 

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...