Kế thừa giá trị truyền
thống của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm “lấy dân làm gốc” và
theo quan điểm của Người thì độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là để mang
lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Người cho rằng: “Nếu nước độc lập mà
dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì” và
Người luôn khát khao: “Làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Mặc dù lợi ích quốc
gia là nền tảng hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại nhưng quan điểm và
cách thức hiện thực hóa mục tiêu lợi ích quốc gia lại khác nhau tùy vào yếu tố
lịch sử - văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội, thể chế chính trị và nền tảng tư
tưởng của từng nước. Đối với Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng và cơ sở lý luận để hoạch định đường lối, chính sách
đối ngoại.
Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin thì giữa lợi ích quốc gia với lợi ích giai cấp có mối liên hệ
mật thiết với nhau. Trên thực tế, chủ thể hoạch định chính sách đối ngoại chính
là nhà nước trong khi đó nhà nước mang bản chất giai cấp. Do đó, việc xác định
lợi ích quốc gia sẽ do giai cấp cầm quyền chi phối. Vì vậy, lợi ích quốc gia sẽ
gắn với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” và “Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Như vậy, đối với Việt Nam, lợi ích quốc
gia gắn với lợi ích của Nhân dân và việc xác định lợi ích quốc gia sẽ do Nhân
dân quyết định, trong đó liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức là nền tảng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, lợi ích quốc gia - dân tộc quan trọng nhất, thiêng liêng nhất của Việt
Nam chính là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chủ quyền quốc gia và toàn
vẹn lãnh thổ. Sinh thời, Người luôn khẳng định “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”. Trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945,
Bác đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” và trong suốt cuộc
đời cách mạng của mình Bác luôn đấu tranh cho các quyền dân tộc cơ bản ấy.
Kế thừa giá trị truyền
thống quý báu của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm “lấy dân làm
gốc” và theo quan điểm của Người thì độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là
để mang lại sự tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Người cho rằng: “Nếu nước
độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng không có
nghĩa lý gì” và Người luôn khát khao: “Làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”.
Trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã
khẳng định rõ mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Đến Đại hội
XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia
-dân tộc”. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó
lường như hiện nay thì việc bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam đứng
trước không ít khó khăn, thách thức. Vì vậy, quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong các hoạt động đối ngoại là cơ sở quan
trọng để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
Trước hết, bảo vệ lợi
ích quốc gia - dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp công
nhân. Việt Nam luôn dành ưu tiên cao nhất cho lợi ích quốc gia - dân tộc nhưng
cũng kiên trì chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống
nhất của giai cấp công nhân toàn thế giới về: lợi ích, tư tưởng, mục tiêu,
thống nhất về tổ chức và thống nhất trong hành động. Do đó, việc bảo đảm lợi
ích quốc gia - dân tộc luôn gắn với cuộc đấu tranh chung của giai cấp vô sản vì
hòa bình, độc lập, dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.
Trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong hoạch định và thực thi đường
lối, chính sách đối ngoại, Đảng ta luôn nhấn mạnh chủ trương: “Mở rộng quan hệ
và đẩy mạnh hợp tác với các lực lượng chính trị, xã hội và nhân dân các nước,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ
xã hội”.
Thứ hai, để bảo vệ lợi
ích quốc gia - dân tộc, cần nhất quán quan điểm độc lập, tự chủ gắn với đoàn
kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Theo Hồ Chí Minh,
độc lập, tự chủ nghĩa là tự mình điều khiển mọi công việc của mình, không có sự
can thiệp ở ngoài nào. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh luôn nhấn mạnh “tự lực cánh sinh”, “lấy sức ta để giải phóng cho ta”.
Nhưng độc lập, tự chủ và tự lực, tự cường không có nghĩa là biệt lập và chủ
nghĩa biệt phái. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ như
hiện nay, hợp tác, liên kết, sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ,
lợi ích của các dân tộc đan xen, chồng chéo, việc thực hiện đường lối độc lập,
tự chủ chính là để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc chính đáng. Cùng với đó,
công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đang đứng
trước những khó khăn, thách thức lớn nhất là chủ nghĩa cường quyền nước lớn,
chúng ta cần phải biết đoàn kết quốc tế. Mục tiêu của đoàn kết quốc tế là để
làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo sự chuyển biến về so sánh lực
lượng có lợi cho đất nước; đồng thời, nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của
bạn bè quốc tế đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh
thổ.
Thứ ba, thực hiện tốt
phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” - lấy cái không thể thay đổi để ứng phó
với muôn sự thay đổi. Phương châm này bắt nguồn từ triết lý phương Đông và được
cha ông ta vận dụng hiệu quả trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước dài
lâu của dân tộc. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy cao độ trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Ngày nay, vận dụng phương châm này trong hoạt động đối
ngoại thì cái bất biến chính là lợi ích quốc gia - dân tộc và cái vạn biến
chính là sách lược bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Mục tiêu lợi ích quốc gia
- dân tộc là không thay đổi nhưng trong mỗi tình huống thì sách lược ngoại giao
phải linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế cách mạng Việt Nam và bối cảnh
khu vực, quốc tế trong từng thời điểm. Có như vậy mới có thể đảm bảo tốt nhất
lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh hiện nay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét