Hơn 78 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước nền tư pháp nước ta đã đạt được những thành tựu
quan trọng, góp phần thực hiện hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Tuyên cáo thành lập Nội các Thống nhất Quốc gia gồm
12 Bộ, trong đó có Bộ Tư pháp do đồng chí Vũ Trọng Khánh làm Bộ trưởng. Ra đời
trong chế độ mới, thấm nhuần tư tưởng bình đẳng, dân chủ chống áp bức vì sự tiến
bộ xã hội trong Tuyên ngôn độc lập của Bác, trong giai đoạn đầu thành lập, theo
Nghị định số 37 về tổ chức của Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp có chức năng xây dựng các
dự án luật, pháp lệnh về hình sự, dân sự, thương sự và thủ tục tố tụng …; tổ chức
và quản trị các Tòa án, các thẩm phán và viên chức Tư pháp, truy tố các tội phạm,
quản trị các nhà lao và giáo dục phạm nhân, quản lý các luật sư, quản tài viên,
đấu giá viên, thừa phát lại, dự thảo và thi hành các hiệp ước quốc tế về tư
pháp. Trong tình hình hết sức khẩn trương của cuộc kháng chiến, Bộ Tư pháp đã kịp
thời kiến nghị ban hành Sắc lệnh về việc giữ lại các luật lệ cũ để áp dụng với
điều kiện không được phương hại đến quyền lợi của Nhân dân và nền độc lập của đất
nước; xây dựng, trình Chủ tịch nước ban hành các văn bản về chế độ tư pháp mới,
thiết lập hệ thống Tòa án và các ngành thẩm phán, tiến hành tuyển chọn những thẩm
phán đầu tiên của chế độ mới. Tuy nhiên, những tư tưởng cao đẹp của Hiến pháp
năm 1946 đang được triển khai thực hiện thì thực dân Pháp đã quay lại nhằm xâm
chiếm nước ta một lần nữa. Để cùng cả nước với cuộc kháng chiến trường kỳ, cuối
năm 1946, Bộ Tư pháp dời tru sở lên chiến khu Việt Bắc. Trong điều kiện ác liệt
của cuộc kháng chiến, Bộ Tư pháp đã tập trung mọi nỗ lực để tham mưu, đề xuất
và tổ chức thực hiện công cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất vào năm 1950 trên
cả ba phương diện: Lập pháp - Tố tụng - Tổ chức Ngành Tư pháp. Trong đó, trọng
tâm là cải cách bộ máy tư pháp với các luật tố tụng theo hướng tăng cường tính
nhân dân, xây dựng nền tảng tư pháp nhân dân, vận động Nhân dân tham gia công
tác tư pháp, tham gia kháng chiến, bảo vệ chính quyền, thực hiện giảm tô, cải
cách ruộng đất, đưa cuộc kháng chiến đến thẳng lợi, vẻ vang. Dưới sự lãnh đạo của
Trung ương Đảng, Chính phủ, thế hệ cán bộ Tư pháp đầu tiên là các tri thức, luật
gia, luật sư yêu nước đã tự nguyện tham gia công cuộc kiến thiết dân chủ, tổ chức,
điều hành bộ máy tư pháp cách mạng và có nhiều đóng góp quan trọng cho đất nước
trên mặt trận ngoại giao... Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Kháng
chiến thắng lợi, Bộ Tư pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư khen ngợi. Đất
nước bước sang một giai đoạn cách mạng mới, Bộ Tư pháp tập trung giúp Chính phủ
xây dựng Hiến pháp năm 1959 và các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các luật,
sắc lệnh về quyền dân sự, quyền tự do dân chủ của Nhân dân phù hợp với tình
hình mới. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, ở miền Bắc, các cơ quan pháp chế
đã tích cực triển khai công tác tham mưu về pháp luật, công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, xây dựng khuôn khổ pháp lý cho việc kế hoạch hóa kinh tế quốc
dân.... Ở cơ sở, các Ban Tư pháp chú trọng công tác hòa giải ở cơ sở, phát huy
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, trật tự
xã hội…Ngày 11/02/1960, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/CP quy định
nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư pháp. Theo Nghị định này, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ
nghiên cứu những quy định về hệ thống tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân
địa phương các cấp, của Tư pháp cấp xã; hướng dẫn việc thực hiện các quy định ấy;
nghiên cứu và dự thảo các bộ luật và các đạo luật tổng hợp về dân sự, hình sự
và thủ tục tố tụng; chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm mục
đích giáo dục cho Nhân dân ý thức tuân theo pháp luật; nghiên cứu những quy định
về hội thẩm nhân dân, về tổ chức luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám
định viên và quản lý các tổ chức ấy; đào tạo và giáo dục cán bộ tòa án và cán bộ
tư pháp; quản lý cán bộ và biên chế của Ngành Tư pháp theo chế độ phân cấp quản
lý cán bộ và biên chế; hướng dẫn, kiểm tra và tổng kết công tác của Ngành Tư
pháp.
Năm 1972, Ủy ban pháp
chế (thay thế cho Bộ Tư pháp) được thành lập giúp Chính phủ quản lý toàn diện về
pháp luật, pháp chế, góp phần quan trọng trong quản lý thống nhất công tác pháp
chế của Hội đồng Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý thống nhất công tác xây
dựng và ban hành pháp luật, hướng dẫn và theo dõi thi hành pháp luật, xây dựng
cơ quan pháp chế cấp dưới, bồi dưỡng cán bộ pháp chế, quản lý hành chính tư
pháp; làm tư vấn pháp luật cho Ủy ban hành chính về các vấn đề liên quan đến
pháp chế.
Năm 1981, Bộ Chính trị ra Nghị quyết tái thành lập Bộ Tư
pháp, kế thừa tổ chức và hoạt động của Ủy ban pháp chế với sự mở rộng chức
năng, nhiệm vụ. Ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số
143-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp. Theo
đó, Bộ Tư pháp là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, có chức năng giúp Hội đồng Bộ
trưởng thực hiện quản lý thống nhất các công việc về tư pháp trong cả nước, bao
gồm công tác dự thảo pháp luật, quản lý về mặt tổ chức các Tòa án nhân sân địa
phương và các công tác tư pháp khác; công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức
pháp luật xã hội chủ nghĩa trong cán bộ và Nhân dân; góp phần bảo đảm thi hành
Hiến pháp và pháp luật; tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện quyền làm chủ
tập thể xã hội chủ nghĩa của Nhân dân. Bộ Tư pháp đã có những đóng góp quan trọng
trong xây dựng pháp luật, mở đường cho đổi mới về kinh tế, xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm 1986, Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện và
sâu sắc, trước hết là đổi mới về kinh tế. Từ sự đổi mới về tư duy pháp lý, Bộ
Tư pháp đã chủ trì hoặc tham gia xây dựng các đạo luật, pháp lệnh đầu tiên của
thời kỳ đổi mới. Những đề xuất đổi mới về pháp luật đã tạo không gian pháp lý
phù hợp, giúp nhanh chóng giải phóng tối ưu các nguồn lực trong cả nước, thổi
luồng gió mới cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đổi mới về pháp luật có
tính trụ cột trong hệ thống pháp luật như chủ trì xây dựng Bộ luật Hình sự năm
1985, Bộ luật Tố tụng hình sự 1988, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Luật Quốc
tịch Việt Nam năm 1988; Pháp lệnh Trừng trị tội hối lộ năm 1981…; góp phần xây
dựng Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Luật Công ty năm 1990, Luật
Doanh nghiệp tư nhân..; tham gia góp ý về các điều ước quốc tế, cùng các ngành
trình ký kết hoặc gia nhập trên 50 điều ước quốc tế. Ngoài ra, công tác quản lý
các Toà án nhân dân về mặt tổ chức cũng có những thay đổi đáng kể, công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật và các công tác khác có nhiều khởi sắc…
Ngày 04/6/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38-CP quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp, là cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc đổi mới, kiện toàn hệ thống các cơ quan tư pháp, đánh dấu một
bước phát triển mới của tổ chức bộ máy cơ quan Bộ Tư pháp nói riêng và tổ chức
hệ thống Ngành Tư pháp nói chung. Theo đó, Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản
lý nhà nước, thống nhất về công tác tư pháp, xây dựng và tham gia xây dựng pháp
luật, phổ biến giáo dục pháp luật, quản lý về mặt tổ chức Tòa án nhân dân địa
phương; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý và quản lý các công tác tư pháp khác…Bộ,
ngành Tư pháp đã có nhiều đóng góp trong việc hoàn thiện pháp luật như chủ trì
soạn thảo Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003; Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004… Công tác kiểm tra, xử lý văn
bản quy phạm pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật, hợp tác quốc tế, thi hành
án dân sự, bổ trợ tư pháp, xử lý vi phạm hành chính… cũng đạt nhiều thành tựu
quan trọng, đi vào chiều sâu phục vụ tốt nhu cầu xây dựng thể chế thị trường, từng
bước hội nhập, góp phần bảo đảm nhu cầu pháp lý của người dân và doanh nghiệp…
Với tư duy năng động, bám sát tình hình thực tiễn, quán triệt
đường lối lãnh đạo của Đảng, Bộ Tư pháp đã đề xuất chủ trì, giúp Chính phủ soạn
thảo trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW về Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, góp phần
quan trọng vào việc xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp giai đoạn 2006 - 2020 và là một mắt xích quan trọng trong tiến trình cải
cách tư pháp. Bộ, ngành Tư pháp tích cực thực hiện Chiến lược xây dựng pháp luật,
cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, đã tạo nên những đột
phá trong hoạt động tư pháp, pháp luật, được Nhà nước tin cậy giao nhiều nhiệm
vụ mới như tổ chức thi hành pháp luật, phục vụ đời sống dân sinh, quản lý trực
tiếp thực hiện bồi thường nhà nước, kiểm soát thủ tục hành chính, quản lý xử lý
vi phạm hành chính…
Đặc biệt, Bộ, ngành Tư pháp trong giai đoạn này ngày càng thể
hiện vai trò nòng cốt trong việc xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - một trong ba đột phá mà Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. Lần đầu tiên trong hoạt động xây dựng
pháp luật của Nhà nước, tiếp theo Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật Hình sự được
tổ chức lấy ý kiến toàn dân theo đề xuất của Bộ Tư pháp. Chủ
trì soạn thảo Bộ
luật dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015... Cơ sở dữ liệu quốc gia về
văn bản pháp luật được triển khai. Hiệp hội công chứng viên lần đầu tiên được
thành lập. Công tác thi hành pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng
khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong việc thi hành pháp luật. Ngày Pháp
luật Việt Nam 09/11 hằng năm được tổ chức nhằm tôn vinh Hiến pháp và pháp luật,
giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật của cán bộ, công chức và Nhân dân. Hoạt động
giáo dục pháp luật trong nhà trường, hòa giải ở cơ sở có nhiều chuyển biến rõ rệt.
Công tác thi hành án dân sự có sự chuyển biến tiến bộ vượt bậc, nhất là khi có
Luật Thi hành án dân sự…
Ngày 16/8/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 96/2017/NĐ-CP
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.
Theo đó Bộ Tư pháp có chức năng quản lý nhà nước về: Xây dựng và thi hành pháp
luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, bồi
thường nhà nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công trong các lĩnh vực thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của Bộ, ngành Tư pháp…Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật
thuộc chức năng, nhiệm vụ của ngành Tư pháp tiếp tục được đẩy mạnh nhằm cụ thể
hóa quy định Hiến pháp năm 2013 và các định hướng cải cách tư pháp. Chủ trì soạn
thảo, trình Quốc hội ban hành: Luật Trợ giúp pháp lý năm 2019, Luật Giám định
Tư pháp năm 2020, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020, Luật tiếp
cận thông tin 2016…Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin như thực hiện tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục
hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích, triển khai đăng ký khai sinh, quản
lý hộ tịch, đăng ký giao địch bảo đảm trực tuyến… Công tác thi hành án dân sự, tổ
chức thi hành pháp luật và các công tác khác có nhiều chuyển biến. Công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật có nhiều đổi mới. Công tác hợp
tác pháp luật được thúc đẩy mạnh mẽ, toàn diện trên mọi bình diện đa phương và
song phương với điểm nhấn là gia nhập Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra
nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp, Tổ chức quốc tế về Luật Phát triển
(IDLO)…/.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét