Phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là
một trong những lĩnh vực trọng yếu của công tác tư tưởng – văn hóa nhằm bảo vệ
vững chắc chế độ và an ninh quốc gia. Đây là vấn đề không mới nhưng luôn mang
tính thời sự, đòi hỏi sự vào cuộc tích cực, kiên quyết, kiên trì của cả hệ
thống chính trị.
Từ năm 1991 đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết
về bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, trong đó có công tác đấu tranh
tư tưởng. Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia đã thể hiện rõ
quan điểm, mục tiêu, chủ trương, nhiệm vụ trong văn kiện các Đại hội VII
(1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001), Đại hội X (2006), Đại hội XI
(2011), Đại hội XII (2016) và Đại hội XIII (2021). Trong các nhiệm kỳ Đại
hội, Đảng ta ban hành một số Nghị quyết chuyên đề về lĩnh vực quan trong này
như Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới”.
Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng chỉ rõ:
“Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm
xuyên tạc, sai trái, thù địch”.
Chỉ đạo công tác đấu tranh tư tưởng, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Những luận điệu của các thế lực thù địch và các phần
tử phản động, cơ hội chính trị... tuy không có gì mới, nhưng nó được tung ra,
truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi
ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự
chuyển biến”, “tự chuyển hóa”
Đặc biệt, trước các hoạt động chống phá quyết liệt của
các thế lực thù địch, phản động cùng những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, ngày 22-10-2018,
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới (Nghị quyết 35).
Nghị quyết 35 nhấn mạnh: Bảo vệ vững chắc nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch
là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân;.. của
cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên,..
Chính vì vậy, việc nhận thức đúng về chính sách quốc
phòng- không liên minh quân sự và phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch về vấn đề này là rất cấp thiết trong tình hình hiện nay nhằm góp phần
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 25/11/12019, Việt Nam công bố Sách trắng Quốc phòng
2019, được bổ sung, phát triển chính sách quốc phòng công bố 2009, công khai
toàn bộ những vấn đề cơ bản của quốc phòng Việt Nam; trong đó, xác định: “Việt
Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để
chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ Việt
Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực
trong quan hệ quốc tế”. Chính sách này được nhiều nước và dư luận quốc tế ủng
hộ, đánh giá cao; phản ánh tinh thần trách nhiệm của Việt Nam góp phần vào củng
cố hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, các thế lực thù địch đã
công kích, xuyên tạc chính sách quốc phòng – không liên minh quân sự của Đảng,
Nhà nước ta. Đặc biệt, chúng còn nêu những “đề xuất”, “kiến nghị” đòi thay đổi
chính sách quốc phòng của Việt Nam.
1.Nhận diện các quan điểm sai trái,
xuyên tạc chính sách bốn không của các thế lực thù địch
Về nội dung
Những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù
địch về chính sách không liên minh quân sự của Việt Nam. Các thế lực thù địch cho rằng,
chính sách “không liên minh quân sự là tự
trói mình” không chỉ dẫn đến mất lãnh thổ,
đe dọa đến an ninh tổng thể của Việt Nam. Họ cho rằng, Việt Nam cần liên minh
với một nước lớn như: Mỹ, Nga, Nhật,.... thì sẽ được sự hỗ trợ tối đa về quân
sự, vũ khí, lực lượng quân đội đến trợ giúp bảo về chủ quyền lãnh thổ, biên
giới, biển, đảo quốc gia.
Các thế lực thù địch cho rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam
thực hiện chính sách quốc phòng không
liên minh quân sự thì chúng ta dễ bị cô lập trước những tình huống nguy hiểm.
Về
bản chất của các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch
Có thể nói, không thuần túy là kêu gọi liên minh quân sự cho Việt Nam, mà mục
đích sâu xa là kích động dư luận xã hội gây áp lực với Đảng, Nhà nước và Quân
đội nhân dân Việt Nam nhằm tạo nên những bất ổn, tiêu cực về quốc phòng, an
nin, gây mất ổn định chính trị, phá vỡ nền hòa bình, xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó mới chính là mục đích thực sự
chúng.
2.
Luận cứ phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch về chính sách
quốc phòng – “không liên minh quân sự” của Việt Nam
Thứ nhất, Xét
về tính hai
mặt của vấn đề liên minh quân sự với nước khác.
Khái niệm: Liên minh quân sự là sự liên kết
hoạt động quân sự giữa hai hoặc nhiều nước hay tập đoàn chính trị trên cơ sở
thống nhất về mục đích và lợi ích. Liên minh quân sự có thể tổ chức thành khối
quân sự hoặc chỉ là đơn vị chiến đấu chung. Tùy thuộc vào mục đích chính trị,
liên minh quân sự có thể là tiến bộ hay phản động, tự vệ hay xâm lược. Nhân
loại đã từng biết đến nhiều kiểu loại và cấp độ liên minh quân sự khác nhau: Có
liên minh nhằm bảo vệ hòa bình, tự vệ, chống xâm lược; có liên minh để xâm
lược, nô dịch quốc gia khác; có liên minh giữa các lực lượng, các dân tộc hoặc
giữa các quốc gia, các khu vực; có liên minh ở dạng gián tiếp, hỗ trợ, răn đe;
có liên minh dạng trực tiếp tham chiến. Ngoài ra, còn có cả liên minh quân sự
dựa trên sự hòa hoãn tạm thời, thậm chí trong một số tình huống cụ thể, liên
minh còn là “vỏ bọc” để nước này bất ngờ tấn công một nước khác.
Chúng ta thấy rằng, không liên minh quân sự là chủ trương
đúng đắn, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Đó là cơ sở quan
trọng để chúng ta đấu tranh bác bỏ ý kiến sai trái kêu gọi Việt Nam phải liên
minh quân sự để bảo vệ Tổ quốc.
Xét về tính hai mặt của vấn đề liên minh quân sự, mặt
tích cực, liên
minh quân sự có thể làm gia tăng sức mạnh quân sự, quốc phòng; tạo sự chuyển
hóa về thế trận và lực lượng quân sự trên chiến trường để thực hiện các chiến
lược chiến tranh hay chiến dịch quân sự cả trong tiến công và phòng ngự; tạo thêm
uy tín, vị thế và sức mạnh cho quốc gia tham gia liên minh.
Tuy nhiên, xét về mặt tiêu cực, liên minh quân sự trực tiếp
khiến căng thẳng gia tăng, làm xuất hiện tình trạng đối đầu giữa các nước trong
và ngoài liên minh, nhất là khi giữa các nước, các khối quân sự vốn có những
mâu thuẫn về lợi ích. Khi hai quốc gia cùng tham gia một liên minh có thể bị
một nước thứ ba coi đó là hành động thù địch và hệ quả rất khó lường. Đây là
nguyên nhân dẫn đến việc các nước, các khối quân sự công khai hoặc ngầm gia tăng
tiềm lực, thực lực, chạy đua vũ trang, tăng cường sự hiện diện quân sự, đẩy
mạnh các hoạt động khiêu khích, tạo cớ; kéo quốc gia, khu vực và cả nhân loại
đến gần hiểm họa chiến tranh. Ngoài ra, nếu tham gia liên minh quân sự có thể
dẫn đến nguy cơ bị tấn công bất ngờ bởi chính các đồng minh nếu chủ quan, lơ
là, mất cảnh giác. Trong khi thực tế không có nước nào chấp nhận hy sinh lợi
ích của dân tộc mình vì lợi ích của nước khác, kể cả nước đó là đồng minh chiến
lược của mình. Thêm nữa, nguyên nhân dẫn đến xung đột, leo thang quân sự ở
nhiều nơi trên thế giới xuất phát từ việc chính phủ và người dân ở những nơi này
không đề cao nguyên tắc độc lập dân tộc, quyền tự quyết của quốc gia, mà lại
trông chờ sự cứu giúp của các lực lượng bên ngoài. Đằng sau sự giúp đỡ tưởng
như vô tư đó là hàng loạt toan tính, mưu đồ, tham vọng về lợi ích, quyền lực
của các cường quốc.
Thứ hai, sức mạnh của bảo vệ Tổ quốc của
một dân tộc không phải dựa vào liên minh quân sự mà phải dựa vào sức mạnh dân
tộc đoàn kết, có nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh độc lập, tự lực, tự cường.
Lịch sử đã chứng minh, Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lược bởi chúng ta có một thứ “vũ khí” vô cùng quan trọng, đó là nhân tố
chính trị - tinh thần to lớn, lòng yêu nước nồng nàn với niềm tin bất duyệt
“toàn dân là lính” của dân tộc.
Có thể nói, Việt Nam xây dựng nền quốc phòng dựa trên sức mạnh của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, lấy sức mạnh nội lực của dân tộc là
chính, coi trọng xây dựng nhân tố chính trị, tinh thần, sự đoàn kết thống nhất,
cả nước đồng lòng, toàn dân một ý chí. Đó chính là việc quy tụ “ý Đảng, lòng
dân”, xây dựng “thế trận lòng dân”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc là
thượng sách giữ nước”. Phát huy sức mạnh chính nghĩa thống nhất với bản chất
tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và lòng nhân
ái, khoan dung của người Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là một minh chứng điển hình cho
việc phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong đấu tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện tại, chúng ta thấy được mối nguy hại khi dựa vào liên
minh quân sự từ cuộc chiến của Ukraina với Nga. Chiến sự xảy ra, tổng thống
Volodymyr Zelensky không thể phát huy tiềm lực quốc phòng nội tại của quốc gia,
mà ông trông chờ sự giúp đỡ của khối liên minh quân sự (Tổ chức hiệp ước Bắc
Đại Tây Dương - NATO). Từ đó dẫn đến nước Ukraina thảm hại.
Qua vấn đề Ukraina hiện tại, chúng ta có quyền khẳng định
sách quốc phòng của Việt Nam hoàn toàn đúng đắn, chúng ta không trông chờ vào
sự liên minh sự với các quốc gia, nước lớn trên thế giới mà Việt Nam phải khẳng
định được sức mạnh nội lực của một nền quốc phòng toàn dân trong chiến lược bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam.
Thứ ba, không tham gia liên minh quân sự,
bởi quốc phòng Việt Nam mang tính chất hòa bình, tự vệ
Việt Nam kiên trì đường lối quốc phòng với mục đích tự vệ
và tính chất hòa bình, chính nghĩa, tiến bộ, phù hợp với quyền cơ bản của các
quốc gia theo nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.
Đồng thời, Việt Nam cũng quyết lên án, phán đối các hành
động gây hấn, xung đột, chạy đua vũ trang của các nước. Bên cạnh đó, Việt Nam
cũng chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tránh những va
chạm không cần thiết, giữ vững quan điểm, không để các đối tượng bên ngoài kích
động, thỏa hiệp với nhau để xâm phạm lợi ích quốc gia – dân tộc.
Thứ tư, Việt Nam thực hiện đường lối tăng
cường hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, nâng cao khả năng bảo vệ đất nước
và giải quyết thách thức an ninh chung
Chính sách quốc phòng – không liên minh quân sự của Việt
Nam là hoàn toàn bất biến. Tuy nhiên, tùy theo hoàn cảnh, tình hình thực tế của
đất nước mà Đảng, Nhà nước ta sẽ có những chiến lược hoạch định chính sách phù
hợp.
Cụ thể, “thùy theo diễn biến của tình hình và trong điều
kiện cụ thể, chúng ta sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân
sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”.
Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc
phòng theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả” để
nâng cao khả năng bảo vệ đất nước, giải quyết các thách thức an ninh chung,
thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ quốc tế, cộng đồng, tích cực hợp tác cùng các
quốc gia khác để giải quyết vấn đề an ninh chung. Đồng thời tích cực, mở rộng
phạm vi, quy mô tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc,..
Nhìn chung, Việt Nam nhất quán quan điểm không liên minh
quân sự nhưng tăng cường hợp tác quốc phòng, hội nhập quốc tế để có sự ủng hộ
của quốc tế, không để bị bao vây, cô lập.
Chúng ta không liên minh quân sự, vì “chủ trương nhất quán
của Việt Nam là thêm bạn, bớt thù. Liên minh quân sự nghĩa là anh phải gắn hẳn
với một bên, có thể đối đầu với bên khác, tức là chuốc thêm kẻ thù. Việt Nam
không đứng về bên nào, chỉ đứng về hòa bình, lẽ phải, công lý, pháp lý quốc tế.
Bây giờ, các nước luôn đề cao lợi ích quốc gia – dân tộc, không ai đi bảo vệ
thay cho nước khác. Lịch sử chiến tranh của Việt Nam đã khẳng định, chỉ khi có
chính nghĩa chúng ta mới giành được thắng lợi, mà muốn có chính nghĩa thì phải
giữ cho được độc lập tự chủ”
Từ những luận cứ phản bác nêu trên, chúng ta thấy, chính
sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp, bảo đảm vùa
giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, vừa bảo được thế cân bằng trong quan hệ quốc
tế, không để đất nước rơi vào tình trạng cạnh tranh, giành ảnh hưởng của các
nước lớn, nhất là không để bị rơi vào thế phải liên minh với một quốc gia để
chống lại quốc gia khác dẫn đến những tác động tiêu cự đến quan hệ quốc tế. Tuy
nhiên, Việt Nam phải tranh thủ tối đa sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong sự
nghiệ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét