Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có
và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và
các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân luôn được tôn trọng và bảo đảm. Cùng với việc ghi nhận quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp năm
1946, 1959, 1980, 1992, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi nhiều chính sách bảo đảm
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tham gia hầu hết các
điều ước quốc tế về quyền con người như Công ước quốc tế về loại trừ các hình
thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966,
Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979,
Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm
2006 v.v… và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, góp phần xây dựng
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh”, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã
hội của toàn nhân loại. Tiếp tục kế thừa và phát triển những quy định của các bản
Hiến pháp trước đây về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
Hiến pháp năm 2013 đã có những đổi mới căn bản, quan trọng cả về cơ cấu, bố cục,
cách viết và nội dung. So sánh, đối chiếu với các bản Hiến pháp trước đây, đặc
biệt là Hiến pháp năm 1992, chúng ta càng thấy rõ đều đó.
Thứ nhất, về tên Chương, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến,
“quyền con người” đã trở thành tên gọi của Chương, thay vì chỉ gọi là “quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân” như Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước
đó. Sự bổ sung cụm từ “quyền con người” là điểm nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất
lớn trong bối cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đây không
chỉ đơn thuần là sự bổ sung một cụm từ mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn
phản ánh tư duy phát triển, phù hợp với xu hướng của dân tộc, thời đại và nhân
loại. Cùng đó, cũng xóa bỏ ranh giới còn chưa rõ ràng giữa khái niệm về quyền
con người và quyền công dân (quyền con người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng
có quyền đó; quyền công dân là quyền của những người có quốc tịch Việt Nam),
ghi nhận việc mở rộng các chủ thể của quyền, khẳng định chủ thể rộng nhất của
quyền con người là mọi cá nhân, mọi người đều được hưởng. Việc thay đổi tên
Chương từ “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong Hiến pháp năm 2013 còn thể hiện sự nỗ lực
và cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các Công ước quốc
tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Thứ hai, Chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân được đưa lên và đặt trang trọng tại Chương II, ngay sau Chương I quy định
về chế độ chính trị. Đây cũng không chỉ đơn thuần là sự thay đổi số học về vị
trí các chương mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn thể hiện sự thay đổi về
nhận thức lý luận, tư duy lập hiến, là sự khẳng định giá trị, vai trò quan trọng
của quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đề cao nguyên tắc
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân,
chủ quyền tối cao thuộc về Nhân dân, đồng thời cũng phản ánh thực tiễn đổi mới
toàn diện, hội nhập sâu rộng, tiến bộ và phát triển của đất nước ta, thể hiện
nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Tham khảo
Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới cho thấy, Chương quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân đều được đặt ở vị trí trang trọng nhất - Chương
I hoặc Chương II của các bản Hiến pháp.
Thứ ba, với quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản
1 Điều 14), Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức
lý luận và tư duy lập hiến trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân
so với Hiến pháp năm 1992 (chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị, dân sự và
kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện ở các quyền công dân). Điểm nhấn của nội
dung này là việc bổ sung nguyên tắc “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể
bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). Đây chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực
của quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành mạnh
giữa các lợi ích trong mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân, cá
nhân và phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là
thành viên; hạn chế tối đa bất cứ sự lạm dụng hay tùy tiện nào tước đi hay hạn
chế các quyền và tự do vốn có của mọi người bởi các cơ quan nhà nước.
Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các
nguyên tắc về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hướng:
quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng
quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước
và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi
ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều 15 và Điều 16). Nguyên tắc hiến định này
vừa khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền và nghĩa vụ, vừa đặc biệt nhấn
mạnh đến việc thực hiện quyền của người này không thể là sự chối bỏ, phủ nhận
hay xâm phạm đến quyền của người khác; nói khác đi, việc tôn trọng các quyền tự
do của mỗi người phải đặt trong mối quan hệ với việc tôn trọng quyền và tự do của
người khác.
Thứ năm, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013
đã bổ sung 05 quyền hoàn toàn mới và sửa đổi, bổ sung trên 30 quyền còn lại.
- Về các quyền hoàn toàn mới, với 05 điều cụ thể:
Điều 19 (quyền sống), Điều 40 (quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo
văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó), Điều 41 (quyền
hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng
các cơ sở văn hóa), Điều 42 (quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ
mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp), Điều 43 (quyền được sống trong môi trường
trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường), Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định
sự phát triển mạnh mẽ trong chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân. Các quyền này đều nằm trong hai nhóm quyền cơ bản được ghi nhận
trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Các
quyền này vô cùng thiết yếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi người với
tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại và với tư cách là cá nhân. Trong
05 quyền mới được hiến định lần này, có thể nói việc hiến định quyền sống được
coi là bước tiến rõ rệt đối với những cam kết của Việt Nam trong việc tôn trọng
và bảo vệ quyền sống của tất cả mọi người, trong đó có cả các nhóm người dễ bị
tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật… Bên cạnh quyền sống, con người
còn cần đến nhu cầu và điều kiện để phát triển. Quyền được phát triển gắn liền
với việc tiếp cận, nghiên cứu, thụ hưởng các giá trị vật chất, tinh thần và những
thành quả của khoa học - công nghệ, văn học, nghệ thuật, các giá trị văn hóa.
Chính vì thế, việc hiến định các quyền về nghiên cứu khoa học - công nghệ, sáng
tạo văn học, nghệ thuật, về văn hóa là hết sức cần thiết, giúp ích cho việc
nâng cao chất lượng cuộc sống và mục tiêu hướng tới của quá trình phát triển của
mọi người. Thực tiễn gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta cho thấy,
tình trạng suy thoái và ô nhiễm môi trường đã và đang là nguyên nhân trực tiếp
đe dọa đến sự sống, sức khỏe, sự phát triển của mọi người. Vì vậy, quyền sống
và quyền phát triển của mọi người không thể tách rời với quyền về môi trường.
Điều 43 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền được sống trong môi trường
trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Quyền về môi trường là một loại
quyền mới trong hệ thống các quyền con người, trong khi nhiều quốc gia trên thế
giới chưa hiến định quyền này thì quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền môi
trường lại càng có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện sự tiến bộ, phát triển rõ rệt của
Việt Nam trên trường quốc tế. Ở một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, quyền xác
định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp của
công dân là nhu cầu và là yếu tố bảo đảm bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển giữa các dân tộc. Xác định rõ vấn đề này, Điều 42 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng
ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”.
- Về các quyền được sửa đổi, bổ sung. Cùng với
việc hiến định các quyền mới, Hiến pháp năm 2013 còn sửa đổi, bổ sung hơn 30 điều
cụ thể trong Chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những
sửa đổi, bổ sung này là một bước tiến mới trong việc hiến định các quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; là sự phản ánh thành tựu của gần
30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước, thể hiện trách nhiệm ngày càng
cao của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân với những thiết chế, cơ chế hiệu lực, hiệu quả, trong đó
đáng chú ý là cơ chế thực hiện quyền dân chủ trực tiếp như quyền hiến mô, bộ phận
cơ thể người và hiến xác (Điều 20), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng
tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình
(Điều 21), quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22), quyền tiếp cận thông tin (Điều
25), quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34), quyền kết hôn, ly hôn (Điều
36) v.v… Khẳng định thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm là một quyền bất khả
xâm phạm của mọi người, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định mọi người
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất cứ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1 Điều
20). Quy định này thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm
cho mọi người được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đồng thời cũng thể
hiện cam kết trong việc thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn
và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con
người mà Quốc hội khóa XIII đã phê chuẩn tại kỳ họp thứ 8.
- Về các nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ bản,
Hiến pháp năm 2013 giữ nguyên như quy định của Hiến pháp năm 1992, như công dân
có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc (Điều 44); công dân phải thực hiện nghĩa vụ
quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân (Điều 45); công dân có
nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng (Điều 46).
Riêng nghĩa vụ nộp thuế đã sửa đổi về chủ thể, thay cụm từ “công dân” bằng cụm
từ “mọi người” cho phù hợp (mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định chứ
không chỉ có công dân Việt Nam như quy định tại Điều 80 của Hiến pháp năm
1992). Bên cạnh đó, tại Chương II của Hiến pháp năm 2013 cũng còn một số điều
quy định quyền gắn với nghĩa vụ cơ bản của công dân, như quyền được bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và nghĩa vụ thực
hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh (Điều 38), quyền và nghĩa
vụ học tập của công dân (Điều 39); quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 45)
v.v…
Thứ sáu, Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh đến vai
trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực
hiện các quyền con người, quyền công dân, nhất là các quyền về kinh tế, văn
hóa, xã hội, như: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo” (khoản 2 Điều 24), “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ
phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội” (khoản 2 Điều
26), “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội;
công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công
dân (khoản 2 Điều 28); “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi
của người mẹ và trẻ em” (khoản 2 Điều 36); “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và
xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”, “Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã
hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi
dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân…”, “Người cao tuổi được
Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 37) v.v… Cùng với việc nhấn mạnh vai
trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực
hiện các quyền con người, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các thiết chế độc lập
nhằm tăng cường cơ chế thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, như hiến định Hội đồng Bầu cử quốc gia (Điều 117) và bổ sung quy định
“Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (đoạn 2, khoản 2 Điều 119)./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét