“Kiêu hãnh Trường Sơn”- một triển lãm
xúc động giúp thế hệ trẻ có cái nhìn cận cảnh về chiến tranh, về con đường
huyền thoại Trường Sơn với sự đóng góp hy sinh của những người phụ nữ. Tôi gọi
họ là những “bông hoa thép” trên con đường huyền thoại.
Những "huyền thoại của huyền thoại"
Triển lãm “Kiêu hãnh Trường Sơn” như
một thước phim chậm rãi đưa người xem đến với con đường Trường Sơn huyền thoại,
với những câu chuyện, những kỷ niệm về một thời khói lửa của các nữ chiến sĩ.
Với ba chủ đề: Dấu ấn một huyền thoại,
Những bông hồng thép, Phía sau cuộc chiến...; triển lãm Kiêu hãnh Trường Sơn
khắc họa lịch sử một con đường bằng chính sự can đảm, bền bỉ, khát vọng và cả
những hồn nhiên đời thường của "những bông hồng thép" đã sống, chiến
đấu và hi sinh cho con đường huyền thoại này..
Trường Sơn với những khoảng khắc ấy,
với con suối, chiếc xe bên hố bom, trong những đêm mùa khô thiếu nước hanh hao
hay những ngày ngụp lặn trong mùa mưa cả tháng không khô quần áo, tất cả được
trưng bày một cách đầy đủ giúp chúng ta hiểu hơn về một lực lượng đặc biệt,
những cô gái trên đường Trường Sơn huyền thoại.
Con đường Trường Sơn đã để lại những
cái tên đi vào lịch sử như 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc, Tiểu đoàn nữ chiến sĩ
Trưng Trắc của Hà Tây hay những cái tên bất tử như Hồ Kan Lịch, La Thị Tám,
Nguyễn Thị Huấn, Hồ Thị Thu Hiền.
Những con người đã làm nên kỳ tích
“Mỗi năm tôi gùi 20 tấn hàng, gấp 3 lần khối lượng trung bình của đồng đội nên
khi mới 17,18 tuổi được phong kiện tướng “chân đồng, vai sắt” (Anh hùng Nguyễn
Thị Huấn, C2, Tiểu đoàn 232 Cục Hậu cần quân khu V).
Triển lãm dựa trên lời kể cùng chân
dung của 60 cựu nữ chiến sĩ, thanh niên xung phong. Cuộc sống nơi chiến trường
Trường Sơn được hiện lên đậm màu lính nhưng cũng đậm chất nữ tính với những câu
chuyện dung dị, đời thường chứa đựng nỗi niềm của người con gái nơi chiến
trường.
Triển lãm không hướng tới sự khốc liệt của chiến tranh mà
dựng lại cuộc sống đời thường của các cô gái, cái thời mái tóc dài đen mượt là
một trong những chuẩn mực của vẻ đẹp người con gái, vậy mà “vào chiến trường
hay bị sốt rét nên tóc rụng hàng ngày, có chị rụng cả đầu.
Người khóc, người hoảng sợ nên không
dám chải đầu vì tóc rời ra”. Rồi ghẻ lở, sốt rét, bệnh phụ khoa luôn là nỗi ám
ảnh của những phụ nữ khi sống ở chiến trường. Có những câu chuyện rất chân thực
như ở chiến trường không sợ bom đạn, cái chết mà các chị sợ vắt, sợ xấu, sợ ma
khi hành quân trong đêm hay phát khóc khi gặp trăn trong lúc đi hái rau rừng.
Họ, những người chiến sĩ ấy đã trải
qua những cảm xúc cùng cực nhiều hơn cả một đời người để có thể có yêu thương,
căm thù, ám ảnh, mất mát, sợ hãi, kiên cường. Thế nên, xuất hiện trong hầu hết
những bức ảnh về cái thời khốc liệt xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy lại là
hình ảnh những cô gái- chiến sĩ rạng ngời trong nụ cười tỏa nắng hay những
khoảng khắc xúc động, yêu thương của tình đồng đội.
Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh bộ
đội Trường Sơn, đã từng thán phục khi nói về họ, đội ngũ nữ chiến sĩ Trường Sơn
là “huyền thoại của huyền thoại”- có mặt khắp mọi nơi, mọi thời điểm, mọi công
tác, mọi binh chủng.
Nhớ mãi thời hoa lửa
Tôi đã may mắn được gặp những cô gái
Trường Sơn năm xưa trong triển lãm xúc động này. Những cô gái ra đi theo tiếng
gọi của Tổ quốc từ 16-17 tuổi ấy giờ đã ngoài 60 tuổi, có những người 70 tuổi.
Họ đến từ nhiều vùng đất khác nhau, người trở về lành lặn, sống bình yên vui
vầy cùng con cháu, người trên ngực lấp lánh huy chương nhưng trong mình chứa
đầy thương tích, di chứng của chất độc da cam.
Rất nhiều người trong số họ phải đối
diện với nỗi đau hậu chiến hay nỗi cô đơn của tuổi già khi không có gia đình.
Nhưng họ không bi lụy, không tuyệt vọng mà ở họ vẫn là niềm lạc quan, vui sống
và tin vào cuộc sống.
Những con người kiên cường ấy, họ đã
bỏ lại tuổi thanh xuân của mình trên con đường Trường Sơn khói lửa và họ luôn
thấy may mắn khi được trở về. Những cô gái 16 xuân xanh, cân chưa đủ nặng vẫn
lén đeo đá vào hoặc tìm mọi cách để đủ cân để đạt tiêu chuẩn lên đường. Và ngay
cả khi đăng ký nhập ngũ, họ cũng không hẹn ngày trở về.
Trong câu chuyện với tôi, bà Nguyễn
Thị Chinh Chiến, chia sẻ bà hạnh phúc khi được sống và có một gia đình bình
yên, ấm êm. Nhắc lại chuyện xưa, bà bảo rằng đó là quãng đời không thể nào
quên: “Tôi được phân công vào một đơn vị bệnh viện. Chiến tranh khốc liệt,
chứng kiến nỗi đau của thương bệnh binh mà không cầm được nước mắt. Tôi chỉ
nghĩ, mình sẽ mang hết trách nhiệm, tình thương phục vụ các chiến sĩ.
Ngày đó, tôi chưa tròn 17 tuổi, viết
đơn xin đi. Bố tôi là lão thành cách mạng chống Pháo, ông bảo con đi khó khăn
nhưng không được đào ngũ. Bố muốn tôi ở ngoài này cho an toàn, nhưng tôi trả
lời, không, bạn đi đâu con đi đó, đi đâu cũng có đồng đội. Tôi hành quân liên
tục trong 2 tháng đi vào đến chến trường Nam Lào. Có lần đi trong đêm pháo sáng
trắng đường, không biết là sắp có bom, đi qua một lúc thì máy bay B52 đánh tan
nát con đường đó luôn. Tôi ở trong bệnh viện, chứng kiến nhiều cái chết, do vết
thương quá nặng”.
Nhưng không phải ai cũng có may mắn
được trở về và có cuộc sống an lành như bà Chiến. Ngồi trước mặt tôi là bà
Nguyễn Thị Chiên, từ Yên Định Thanh Hóa lên Hà Nội gặp mặt đồng đội. Trở về sau
chiến tranh bà Chiên mang trong mình di chứng của chất độc da cam. Nhưng bà nói
về nỗi đau không bi lụy, tuyệt vọng mà vẫn đầy khí chất của bộ đội Trường Sơn.
“Ngày đó, tôi tuổi chưa đủ, cân còn
thiếu nhưng vẫn xung phong đi. Tôi làm công tác vận chuyển trên đường dây 559.
Tôi còn nhớ, năm đó, Mỹ ném bom ra miền Bắc dữ quá, thương binh trở về nằm la
liệt khắp sân kho của thôn. Chứng kiến những cảnh đau đớn đó, tôi xung phong
lên đường. Tôi chỉ có 39kg mà vác cái hòm 70kg. Ngày lễ noel, giặc Mỹ ngừng ném
bom, chúng tôi vác 24/24. Tôi hành quân 6 tháng ròng rã, làm nhiệm vụ vận
chuyển, bốc vác. Nhưng không may, tôi bị nhiễm chất độc da cam. Cháu nội, cháu
ngoại đều bị u xương.
Tôi làm Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc
da cam của huyện. Nhưng tôi vẫn tự hào vì mình từng góp một phần bé nhỏ vào
công cuộc giải phóng đất nước”. Di chứng chất độc màu da cam kéo dài không chỉ
đến thế hệ con mà cả cháu… “Nhưng nhiều người còn khổ hơn tôi, những vất vả của
tôi vẫn chưa thấm vào đâu so với đồng đội. Tôi ở trong Hội Nạn chất độc da cam,
cô biết, nhiều cảnh đời khổ lắm” - Cô Chiên nói.
Những người lính năm xưa, những “bông
hoa thép” của đường Trường Sơn năm xưa trở về cuộc sống đời thường vẫn giữ khí
chất của những người anh hùng. Tôi gặp bác sĩ Trần Thị Thục Oanh- bác sĩ Bệnh
viện 108 giờ đã nghỉ hưu. Giờ tuổi đã ngoài 80 nhưng giọng bà vẫn sang sảng,
mạnh mẽ.
Trên ngực đeo đầy huy chương. Người
phụ nữ bé nhỏ ấy đã đi qua hai cuộc chiến tranh, làm công tác quân y, bảo đảm
an toàn cho thương bệnh binh, từ chiến dịch Điện Biên Phủ rồi sau này vào
Trường Sơn.
“Trên đường hành quân vào chiến
trường, tôi đã chứng kiến sự hy sinh rất đau lòng của đồng đội. Khi chúng tôi
vừa tới Quảng Binh thì bom đã rơi trúng một chị y tá khiến chị văng đi. Mỗi lần
dọc đường hành quân, nhìn thấy một chiến sĩ đang nằm trên võng, khẩu súng AK
vắt ngang người, tôi lay người, chẳng thấy anh động tĩnh gì. Hóa ra anh này đã
hy sinh từ lúc nào do sốt rét… Tôi sợ vắt hơn bom đạn. Vắt cứ tự chui dưới lá
khô lên bám vào người cắn no rồi tự lăn đi. Sợ lắm”…
Sau ngày giải phóng bà Oanh được về
công tác ở Bệnh viện 108. Cuộc chiến đã lấy đi người đàn ông bà yêu thương, họ
hẹn nhau hòa bình trở về làm đám cưới, nhưng ông đã hy sinh trước khi hòa bình
lập lại. Bà Oanh sống một mình, sau này nuôi một cô con gái giờ đã lập gia
đình… 60 tuổi, bà mới có đám cưới đầu tiên trong cuộc đời với một người để làm
bạn tuổi già. Nhưng ông cũng đã bỏ bà ra đi…
“Mỗi người có một số phận, số phận của
tôi gắn liền với hai cuộc chiến tranh. Giờ thì bình thản mà sống thôi, không có
gia đình thì vui với niềm vui của đồng đội, bạn bè…”, bà Oanh nói, giọng vẫn
đầy khí chất của bộ đội Trường Sơn năm xưa./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét