Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024

NVI41 - THỰC HIỆN TINH THẦN 7 DÁM CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 

Từ khi trên cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã có thêm nhiều bài viết, bài nói, tác phẩm rất quan trọng về công tác xây dựng Đảng, về mục tiêu lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong các tác phẩm đó có nhiều nội dung Tổng Bí thư nói về công tác cán bộ.

Tại Hội nghị QUTW lần thứ 6, nhiệm kỳ 2020-2025, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTW đã có chỉ đạo về công tác cán bộ đó là:

 Chúng ta phải chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần 7 dám: “Dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn thử thách; dám hành động vì lợi ích chung”. Đây là một chỉ đạo rất toàn diện và chặt chẽ, vạch ra phương hướng cụ thể cho việc bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ các cấp nói chung và trong quân đội nói triêng, một nội dung rất quan trọng trong công tác cán bộ hiện nay của Đảng.

Trong điều kiện Đảng, Nhà nước và quân đội ta vẫn đang phải tiếp tục bản lĩnh vượt qua những thách thức, nguy cơ, khó khăn để đạt được mục tiêu lý tưởng đã định. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những tác động cả thuận lợi khó khăn đến cách mạng Việt Nam. Các thế lực thù địch vẫn ngày càng chống phá ta trên nhiều mặt với những thủ đoạn tinh vi hơn. Trong nước, trước những tác động của tình hình thế giới, nền kinh tế nước ta bên cạnh những thành công đang gặp không ít những khó khăn, nhiều doanh nghiệp phải giải thể, việc giải ngân đầu tư công của chính phủ chưa đạt được kế hoạch mong đợi. Tình hình phòng chống tham những, lãng phí đang được Đảng ta quan tâm thực hiện nhưng ở một số nơi, một số địa phương chưa triệt để.

Từ thực trạng trên nảy sinh một số cán bộ có tư tưởng lo lắng cho vị trí của bản thân mà co mình lại, phòng thủ, chờ thời không dám nghĩ, dám làm; một số khác thì ngại khó khăn, không dám mạnh dạn triển khai do sợ mắc khuyết điểm, vi phạm; trong khi một bộ phận cán bộ do năng lực hạn chế mà ngại không dám lao vào những công việc khó, việc dễ mắc khuyết điểm; một bộ phận cán bộ thỏa mãn dừng lại, yên tâm với cương vị của mình, phấn đấu cầm chừng theo tư tưởng nhiệm kỳ mà không mạo hiểm dám đương đầu với thử thách, dám hành động vì lợi ích chung. Có thể nói những vấn nạn trên đây cần được nhận diện và có biện pháp đấu tranh khắc phục kịp thời. Có như vậy mới làm chuyển động bộ máy cán bộ theo hướng tích cực, để đội ngũ cán bộ của Đảng, của Quân đội thực sự là “công bộc” của Nhân dân, làm tròn chức năng nhiệm vụ, bổn phận thiêng liêng mà đảng, nhà nước, Nhân dân và Quân đội giao phó.

 Thực tế khách quan là có làm có sai, làm nhiều nguy cơ sai nhiều, làm ít nguy cơ sai ít, không làm không có nguy cơ sai. Nhưng làm cán bộ của Đảng, của Quân đội đã được đào tạo, rèn luyện trong những điều kiện khác nhau, môi trường khác nhau theo từng công việc cụ thể; là cán bộ của Đảng, của Quân đội được hưởng những chế độ đãi ngộ hiện hành, mỗi cán bộ đều phải có nghĩa vụ, trách nhiệm làm việc, cống hiến cho Đảng, cho Tổ quốc và nhân dân. Cán bộ phải có bản lĩnh “Dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn thử thách; dám hành động vì lợi ích chung”. Là cán bộ, nếu công tâm, đúng mực, hành động theo hiến pháp và pháp luật, bám sát đường lối chủ trương của Đảng, tôn trọng vì lợi ích của quảng đại quần chúng Nhân dân thì khó có thể mắc sai lầm khuyết điểm. Mặt khác, nếu quá trình làm việc có sai lầm thì phải có bản lĩnh thẳng thắn, trung thực nhận khuyết điểm và sửa chữa, khắc phục đó mới là cán bộ tốt, cán bộ cách mạng. Quán triệt chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về 7 dám hơn lúc nào hết mỗi cán bộ của Đảng nói chung và cán bộ quân đội nói riêng cần tiếp tục học tập, tu dưỡng và rèn luyện toàn diện hơn, quyết liệt, triệt để hơn để xứng đáng với từng cương vị mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

NVI41 - PHÒNG CHỐNG ÂM MƯU CHIA RẼ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

 

Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc luôn đóng một vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng, là vấn đề chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Song với dã tâm chống phá đất nước ta, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc... các tổ chức, hội nhóm phản động đã không ngừng xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là vấn đề dân tộc.

Chỉ tính riêng tại Mỹ, thống kê sơ bộ cho thấy có trên 160 tổ chức, hội nhóm người H’Mông, tiêu biểu trong số đó là tổ chức “Phát triển quốc gia H’Mông”, “Mặt trận giải phóng thống nhất người H’Mông”…Không chỉ kêu gọi, kích động từ bên ngoài, các đối tượng phản động còn cử người trà trộn vào cộng đồng người dân tộc thiểu số, trực tiếp chỉ đạo, điều hành các vụ tấn công, khủng bố, âm mưu lật đổ chính quyền khiến dư luận vô cùng phẫn nộ. Thực chất mục đích của các tổ chức này là tập hợp phe phái, xây dựng lực lượng, vận động, kêu gọi người chống lại chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, gấy mất đoàn kết dân tộc, làm giảm uy tín của Đảng trước Nhân dân, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.

          Tuy nhiên, nhờ sự vào cuộc kịp thời, quyết liệt của cơ quan chức năng, sự cảnh giác, hợp tác của người dân, những năm qua các hoạt động chống phá lợi dụng chính sách dân tộc để chống phá chế độ đã được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, được người dân đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao; trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số được bảo đảm và ngày càng khởi sắc.

Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước đã cho thấy với sự gắn kết keo sơn, tinh thần tương thân tương ái của các dân tộc anh em, cho nên dù ở thời kỳ nào, đứng trước bất cứ thử thách khó khăn nào thì cộng đồng các dân tộc Việt Nam cũng là một khối đoàn kết, thống nhất, tạo nên sức mạnh để chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua mọi thử thách. Trong Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi), nhấn mạnh: “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam”. Đồng thời, tại Điều 5 của Hiến pháp chỉ rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc…”.

Không chỉ được quy định trong Hiến pháp, nguyên tắc về bình đẳng và không phân biệt chủng tộc liên quan đến thành phần dân tộc đã được cụ thể hóa trong các luật, văn bản dưới luật khác có liên quan và được triển khai thực hiện trong thực tiễn, thông qua nhiều chính sách, chương trình quốc gia tạo sự thống nhất, đồng bộ. Số liệu thống kê cho thấy, cùng với Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành và 97 luật, bộ luật, với gần 300 điều có liên quan đến công tác dân tộc; có 188 chính sách thực hiện tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi đang còn hiệu lực do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành, trong đó có 136 chính sách dân tộc; Ủy ban Dân tộc chủ trì, chỉ đạo 25 chính sách; các bộ, ngành khác chủ trì, chỉ đạo 111 chính sách.

          Vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc luôn đóng một vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Song với dã tâm chống phá đất nước ta, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, triệt để sử dụng kế sách “bẻ từng chiếc đũa”, đó là chia rẽ người Kinh với đồng bào người dân tộc thiểu số, nhen lên tư tưởng “bài Kinh” trong cộng đồng người dân tộc thiểu số, với mong muốn làm cho đất nước bị suy yếu từ bên trong, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo ý đồ của chúng.

Chính quyền các cấp cũng như các cơ quan chức năng, tổ chức chính trị xã hội cần làm tốt hơn nữa công tác dân tộc, nâng cao chất lượng sống về mọi mặt cho người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thường xuyên lắng nghe, kịp thời phát hiện những vấn đề khúc mắc để tìm cách tháo gỡ; đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách đến với đồng bào bằng những hình thức phù hợp, hiệu quả. Đối với người dân, cần tin tưởng vào đường lối của Đảng, cảnh giác để không bị lôi kéo vào các hoạt động bất hợp pháp, làm tổn hại đến khối đoàn kết dân tộc và sự phát triển ổn định của xã hội.

NVH41 - ĐẤU TRANH, NGĂN CHẶN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM

 

Nhiều năm trở lại đây, vấn đề dân chủ, nhân quyền là một trong những mục tiêu trọng tâm mà các thế lực thù địch, đối tượng cơ hội, phản động thường xuyên lợi dụng, khai thác để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Các đối tượng liên tục đưa ra những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Theo đó, một số phúc trình, báo cáo về nhân quyền thế giới đưa ra những nhận định, đánh giá thiếu khách quan, không chính xác về vấn đề tự do tôn giáo, dân chủ nhân quyền ở Việt Nam. Mặt khác, các đối tượng chống phá không ngừng rêu rao về cái gọi là “tù nhân lương tâm”, từ đó lợi dụng, đòi quyền can thiệp tình hình nội bộ Việt Nam, cổ súy, kích động những đối tượng vi phạm pháp luật, bất mãn và cơ hội chính trị tố cáo Việt Nam vi phạm quyền con người.

Chẳng hạn, báo cáo của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam (VNHR) - một trong những tổ chức phản động người Việt lưu vong tại California, Mỹ đã dựng lên việc hiện có gần 300 “tù nhân lương tâm” đang bị giam giữ trong các nhà tù ở Việt Nam và gần 80 người bị chính quyền bắt giữ trong năm 2021.

Một số đối tượng được gọi tên và tung hô trên các diễn đàn như “anh hùng” vì đã dũng cảm đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, nhưng trên thực tế lại là các đối tượng thường xuyên kích động nhân dân chống đối chính quyền soạn thảo, phát tán nhiều tài liệu chống phá Đảng, Nhà nước, bôi xấu chế độ hoặc vi phạm pháp luật nhà nước.

Ngoài ra, cũng phải nhắc tới một số cá nhân vì bất mãn cá nhân hoặc mục đích riêng thường xuyên trả lời phỏng vấn báo đài, nước ngoài xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền; thậm chí tập hợp lực lượng là các phần tử, tổ chức trong nước và ngoài nước, hướng dẫn kỹ năng hoạt động chống phá chính quyền.

Tổ chức khủng bố Việt Tân còn dựng lên “giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng”, đồng thời coi đây như “một nỗ lực đóng góp cụ thể vào công cuộc đấu tranh cho nhân quyền và tự do của dân tộc Việt Nam”!

Với chiêu bài cổ súy, bảo vệ cho những hành vi xem thường luật pháp, gây rối trật tự xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá chế độ, các đối tượng chống đối trong nước móc ngoặc với các thế lực thù địch bên ngoài tìm mọi cơ hội để lan truyền những thông tin ngụy tạo, sai sự thật hòng đánh lừa dư luận về những sai lầm khuyết điểm của các tổ chức cá nhân, lên án “sự yếu kém của chế độ”, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Mục đích mà các đối tượng hướng đến là nhằm gây mất ổn định tình hình an ninh, trật tự; hạ thấp uy tín, vị thế của Việt Nam; kích động chia rẽ làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước phục vụ cho chiến lược “diễn biến hòa bình” và đích cuối cùng là nhằm chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

Cần khẳng định rằng, trong tiến trình xây dựng nền văn minh, Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đều quản lý xã hội bằng công cụ pháp luật. Những đối tượng vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm khắc theo quy định của luật pháp.

Pháp luật Việt Nam được xây dựng phù hợp quy định của pháp luật quốc tế và yêu cầu thực tiễn nhằm bảo đảm cho sự phát triển tự do của nhân dân, góp phần xây dựng và duy trì xã hội trật tự, ổn định, ngăn chặn các tổ chức và cá nhân lợi dụng quyền tự do, dân chủ để xâm phạm quyền con người.

Trong đó, tôn trọng và bảo đảm nhân quyền là quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam.

Các luận điệu chống phá mà những đối tượng cơ hội, phản động, các thế lực thù địch đưa ra không dựa trên những thông tin chính thống, có kiểm chứng mà dựa trên những thông tin thu thập theo kiểu cóp nhặt, cắt xén có dụng ý, với động cơ chính trị rõ ràng để bôi nhọ Việt Nam.

Như cái gọi là “tù nhân lương tâm” chỉ là sự bịa đặt, sai lệch về pháp lý, bởi lẽ khi có hành vi phạm tội, đối tượng phải chịu sự điều tra, truy tố, xét xử công khai, bị tuyên án và phải chịu hình phạt theo quyết định có hiệu lực của tòa án.

Ở Việt Nam hoàn toàn không có “tù nhân lương tâm”, chỉ có những đối tượng vi phạm pháp luật và bị các cơ quan chức năng truy tố, xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, việc kích động hay ra sức bảo vệ các đối tượng gọi là “tù nhân lương tâm” chỉ là sự cổ súy cho những kẻ vi phạm pháp luật bị kết án nhưng không chấp hành hình phạt, đội lốt dân chủ, lợi dụng dân chủ để chống phá đất nước, chuyển hóa chế độ xã hội tại Việt Nam.

Có thể thấy rất rõ mưu đồ này qua việc tổ chức khủng bố Việt Tân ra sức tung hô, đánh bóng và lấy tên giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng - vốn là tên một thành viên của tổ chức này, song trên thực tế lại là đối tượng có nhiều hoạt động vi phạm pháp luật.

Ngày 18/10, tại thành phố Vinh (Nghệ An), Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Đình Lượng về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79 Bộ luật Hình sự năm 1999. Quá trình xét xử tại phiên phúc thẩm tiếp tục làm rõ Lê Đình Lượng là đối tượng phản động đặc biệt nguy hiểm; là đối tượng tích cực tuyên truyền, lôi kéo các đối tượng có tư tưởng chống đối trên địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh tham gia vào tổ chức Việt Tân.

Do đó, tòa giữ nguyên bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo Lê Đình Lượng chịu mức án 20 năm tù giam và 5 năm quản chế. Do đó, không ai bất ngờ khi giải thưởng Lê Đình Lượng được lập ra chỉ nhằm trao và cổ súy cho những “nhà hoạt động nhân quyền” cũng đều là những đối tượng vi phạm pháp luật, bị tòa kết án.

Trên thực tế, ngay từ khi thành lập, Nhà nước Việt Nam luôn đặt quyền tự do, dân chủ, nhân quyền của công dân lên hàng đầu, và vấn đề này được quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp năm 2013 quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi công dân một cách đầy đủ. Cụ thể tại Điều 15, Hiến pháp 2013 quy định rõ: Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Công dân Việt Nam được đảm bảo về nhân quyền như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do lập hội, quyền khiếu nại, tố cáo… Pháp luật tôn trọng và bảo vệ những tư tưởng, ý chí, nguyện vọng của mỗi tổ chức và cá nhân nếu phù hợp tinh thần xây dựng và thượng tôn pháp luật, phù hợp chuẩn mực đạo đức và truyền thống văn hóa của dân tộc.

Đồng thời, nếu những tổ chức và cá nhân có mục đích xấu, động cơ không trong sáng, viện cớ về quyền tự do dân chủ, nhân quyền nhưng lại chà đạp lên quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước thì đều phải chịu các chế tài xử phạt tương ứng.

Với cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm, ưu tiên phát triển con người và thúc đẩy bình đẳng trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, Việt Nam đã có những nỗ lực không mệt mỏi trong nhiều năm qua để thúc đẩy và bảo đảm nhân quyền.

Nhiều thành tựu về bảo đảm quyền con người ở Việt Nam được các tổ chức của Liên hợp quốc đánh giá cao. Việt Nam xứng đáng với vai trò là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Thời gian qua, Việt Nam tích cực tham gia và chủ trì các nghị quyết đề cao Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, biến đổi khí hậu và quyền con người,… từ đó có nhiều đóng góp thiết thực đối với hoạt động của Liên hợp quốc.

Việt Nam luôn cầu thị và nỗ lực làm tốt hơn trong vấn đề bảo đảm nhân quyền cho mọi người dân. Trong nhiều báo cáo chính thức của Việt Nam trước các cơ quan nhân quyền Liên hợp quốc đã thẳng thắn đề cập trực tiếp về những khó khăn Việt Nam gặp phải trong công tác nhân quyền, từ đó đề ra những giải pháp để cải thiện trong thời gian tới.

Thực tế tuy đạt nhiều thành tựu về kinh tế-xã hội với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, được sự hỗ trợ, quan tâm từ Chính phủ nhưng nguồn lực của đất nước vẫn còn hạn chế nên cơ sở vật chất các ngành giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao, y tế... còn thiếu thốn, ảnh hưởng đến việc hưởng thụ đầy đủ quyền của người dân, nhất là khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.

Hệ thống pháp luật hiện hành còn thiếu đồng bộ, chưa thật sự sát với thực tiễn. Nhưng quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta là “không ai bị bỏ lại phía sau” và để đạt được điều đó cần sự chung sức, đồng hành, quyết tâm của toàn xã hội.

Trong bối cảnh hiện nay xuất hiện những đối tượng có mục đích đen tối, thiếu trách nhiệm với đất nước, với cộng đồng, cố tình lợi dụng quyền tự do, dân chủ để làm tổn hại lợi ích của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân; thường xuyên sử dụng chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Để không bị kẻ xấu dẫn dắt, tin nghe theo những luận điệu sai sự thật, mỗi người cần nâng cao nhận thức, tỉnh táo và cảnh giác trước những thông tin không chính thống xuyên tạc việc bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam. Các cá nhân trong điều kiện và khả năng thực tế cần tích cực tham gia đóng góp công sức vào quá trình phát triển của đất nước; chủ động đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động./

NVH41 - ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM

 

Trong những năm qua, lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của Internet và các nền tảng mạng xã hội, các đối tượng phản động, thù địch triệt để lợi dụng để tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc về tình hình Biển Đông và chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.

CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM

Thứ nhất, xuyên tạc Việt Nam nhu nhược, làm ngơ trước những vấn đề liên quan đến Biển Đông.

Các đối tượng thù địch, phản động lợi dụng những sự kiện như: tàu Viking 02 và tàu Bình Minh 02 của Việt Nam bị cắt cáp năm 2011 và 2012; dàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên biển Đông năm 2014; Mỹ và các nước đồng minh ngày càng can dự sâu hơn vào vấn đề Biển Đông; sự cố môi trường do Formosa gây ra đối với các tỉnh miền Trung; nước ngoài triển khai trên thực địa, tăng cường các biện pháp nhằm gia tăng sức mạnh quân sự và thực hiện ý đồ kiểm soát, hiện thực hóa các yêu sách phi pháp tại Biển Đông; tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật trên biển diễn biến phức tạp; các tàu công vụ của nước ngoài tiếp tục kiểm soát, ngăn cản, xua đuổi, khống chế, thu giữ hải sản và ngư cụ của các tàu cá Việt Nam đang hoạt động bình thường ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, vùng biển giáp ranh giữa Việt Nam và Indonesia; tình hình ngư dân Việt Nam đánh bắt trái phép hải sản ở vùng biển của quốc gia khác, bị lực lượng quản lý biển của các nước bắt giữ, xử lý… để tung ra các luận điệu xuyên tạc về tình hình Biển Đông và công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam; gây hoang mang dư luận, đánh lạc hướng dư luận; “tung hỏa mù” hòng “che mắt” và gây mất niềm tin trong nhân dân. Chúng tung ra những “khẩu hiệu” sặc mùi gây hấn và kích động nhằm  ý đồ - mục đích: kêu gọi những người nhẹ dạ, thiếu chín chắn, bất mãn tham gia biểu tình, gây rối nhằm tạo sự chia rẽ, bất ổn trong nước cũng như làm phức tạp mối quan hệ quốc tế giữa Việt Nam với Trung Quốc và các nước láng giềng trong khu vực; sâu xa hơn là hô hào biểu tình gây bạo loạn lật đổ...

Thứ hai, vừa xuyên tạc vừa “khuyến cáo” Việt Nam “bài Trung, thân Mỹ” hòng gây bất ổn chính trị, mất đoàn kết trong nước và quốc tế, ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc.

Chúng lấy cớ việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bác bỏ hầu hết yêu sách chủ quyền trên biển Đông của Trung Quốc để tái diễn nhiều chiêu trò, luận điệu xuyên tạc về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; cổ súy cho việc “bài Trung, thân Mỹ” hòng gây mất ổn định, mất đoàn kết trong nước và quốc tế làm tổn hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Cùng với đó, chúng tung ra các bài viết, bình luận, phỏng vấn của những “chuyên gia” từ hải ngoại với những “luận điểm trọng tâm” là phê phán Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” là “tự trói mình” vì tiềm lực kinh tế, quốc phòng - an ninh Việt Nam hiện nay quá yếu, không thể “ba không, bốn không” mà xoay xở được. Vì thế, chỉ có “một viễn cảnh tươi đẹp” cho Việt Nam là cần phải liên minh với Mỹ để “giữ được chủ quyền biển, đảo và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc”(!)…

Thứ ba, lợi dụng vấn đề Biển Đông và chủ quyền biển, đảo để xuyên tạc, gắn với những vấn đề chính trị khác như công tác nhân sự Đại hội Đảng toàn quốc; các “mật ước bán nước”...

Chúng “dựng chuyện” trên một số nền tảng mạng xã hội như Youtube, rêu rao rằng một số lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam “im lặng” “thỏa hiệp” với nước ngoài để đổi lấy vị trí cao trong Đảng; chúng tìm mọi cách kích động nhân dân “hãy lên tiếng”, “hãy tham gia biểu tình”, “hãy tẩy chay Trung Quốc”...

Thứ tư, tối ưu hóa, đa dạng hóa các thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, phản động trên không gian mạng.

Cùng với tăng cường các nội dung xuyên tạc, chống phá trên các cơ quan báo chí hải ngoại lâu nay vẫn đưa tin tức thiếu thiện chí về Việt Nam như: BBC, RFA, VOA, RFI.... các tổ chức phản động lưu vong như “Việt Tân”, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, “Triều Đại Việt”, “Tập hợp dân chủ đa nguyên” cùng những hội nhóm trá hình trong nước như “Lập Quyền Dân”, “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Tập hợp Quốc dân Việt”… đã không ngừng duy trì và phát triển các website,  tăng cường đưa ra những thông tin bịa đặt, bình luận bát nháo, hình ảnh cắt ghép... để xuyên tạc về vấn đề Biển Đông và chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. “Cộng hưởng” với những giọng điệu chống phá đó là những tài khoản mạng xã hội trở thành những “trợ thủ đắc lực” trong tuyên truyền xuyên tạc, chống phá, vi pham pháp luật Việt Nam.

Nhiều website phản động, chống phá Việt Nam được “nuôi dưỡng” khá mạnh về tài chính, có hệ thống máy chủ, đội ngũ kỹ thuật và chuyên gia bảo mật riêng. Vì thế, “việc của chúng” chỉ là ra sức tung tin, phát tán các “tài liệu” xuyên tạc tình hình biển, đảo; thủ đoạn quen thuộc của chúng vẫn là lợi dụng, tranh thủ những “điểm nóng” trên Biển Đông để “nhai đi nhai lại” các giọng điệu bóp méo, bịa đặt, ngụy tạo về quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo...

Thứ năm, thông qua mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động đã tìm mọi cách móc nối, cấu kết với một số cán bộ, đảng viên tha hóa, biến chất; lôi kéo, mua chuộc, tạo dựng ngọn cờ tập hợp lực lượng chống phá từ bên trong...

Đối tượng chúng hướng đến để tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc là các tầng lớp nhân dân, nhưng trọng tâm, trọng điểm là giới trẻ để tạo lập lực lượng đối lập với Đảng, Nhà nước. Dưới danh nghĩa “đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo”, “yêu nước”,... các đối tượng ở nước ngoài cấu kết với số đối tượng trong nước tìm cách hình thành, phát triển cái gọi là “xã hội dân sự” cùng các tổ chức, hội nhóm bất hợp pháp. Trong đó, các thế lực bên ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động; các đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc về tình hình Biển Đông và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Ngoài ra, chúng còn tìm cách tiếp cận, mua chuộc cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất đang làm việc trong các bộ phận trọng yếu, cơ mật để cung cấp tài liệu, thông tin bí mật quốc gia cho chúng sử dụng chống phá Việt Nam.

LUẬN CỨ TRONG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

Một là, thực tế đã chứng minh rằng, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, trong đó có chủ quyền quốc gia trên biển là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”. “Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”(1).

Vì thế, cần khẳng định rằng, Việt Nam thường xuyên lên tiếng hoặc lên án đối với các hành vi, hoạt động xâm lấn trái phép trên Biển Đông của Trung Quốc và các nước khác trong khu vực; phản đối công khai, rộng rãi và vận động dư luận quốc tế, sự ủng hộ của các nước; tăng cường trao đổi, tích cực đối thoại song phương. Trong một số trường hợp, Việt Nam đã gửi Công hàm phản đối, bày tỏ lập trường rõ ràng, nhất quán của Việt Nam...

Trước sau như một, chủ trương giải quyết của Việt Nam là: “Mọi hoạt động trên biển cần được tiến hành dựa trên cơ sở của UNCLOS 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia ven biển, tại các vùng biển được xác lập theo công ước. Việt Nam mong các nước sẽ nỗ lực đóng góp, thực hiện mục tiêu, nguyện vọng chung của các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế, về việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, thượng tôn pháp luật ở Biển Đông”.

Hai là, Việt Nam ngày càng hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Nhận thức rõ tầm quan trọng, vị trí chiến lược của biển, đảo Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn và nhất quán về biển, đảo. Với việc thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW (khóa X), ngày 9/2/2007 về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, lần đầu tiên chúng ta có một Chiến lược biển toàn diện, tầm nhìn rộng, bao quát cao trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, hợp tác quốc tế, môi trường... Cùng với đó, Nhà nước cũng đã ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, như: Bộ Luật Hàng hải năm 1991; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 1991; Luật Dầu khí năm 1993; Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997; Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển Việt Nam năm 1998; Luật Biển Việt Nam 2012; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015...

Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 8, khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, trong đó xác định các mục tiêu tổng quát như: đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương...

Ba là, Việt Nam luôn ý thức rất rõ, để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hiện nay, phải luôn tự chủ, độc lập, tự cường, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, chứ không thể chỉ dựa vào việc liên minh quân sự với một cường quốc.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 đã nêu rõ chủ trương: “Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.

Đảng ta cũng xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Theo đó, phải phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh của thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy.

Quan điểm thống nhất, xuyên suốt của Việt Nam là bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích hợp pháp trên Biển Đông, đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc, các nước ASEAN và các nước khác.

Bốn là, trong giai đoạn mới, Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị không ngừng điều chỉnh, tăng cường, bổ sung các giải pháp hiệu quả, phù hợp hơn để bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển cũng như loại bỏ các thông tin xấu độc, chống phá. Xác định binh chủng thông tin - tuyên truyền là một trong những mũi nhọn xung kích, cùng với các binh chủng khác giữ vững ổn định chính trị và đảm bảo an ninh quốc gia - dân tộc.

Theo đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin - tuyên truyền, chú trọng hơn nữa đến công tác thông tin đối ngoại, trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc: 1) Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo. 2) Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, minh bạch các chính sách, chính xác hóa và cụ thể hóa thông tin về tình hình biển, đảo của Việt Nam. 3) Phát huy vai trò của báo chí, truyền thông internet trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước, tăng cường bảo đảm an ninh mạng và áp dụng các giải pháp kỹ thuật tăng cường rà quét, bóc gỡ, ngăn chặn những thông tin xấu độc về tình hình biển Đông nói chung và vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam nói riêng.../.

NVH41 - QUY ĐỊNH 148-QĐ/TW: LIỀU THUỐC ĐẶC TRỊ CÁN BỘ NÉ TRÁCH NHIỆM

 

Né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, “ngồi im” không còn là cách thức an toàn để “giữ ghế” của cán bộ các cấp sau ngày 23/5/2024. Đây là thời điểm ra đời Quy định số 148-QĐ/TW của Bộ Chính trị về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Các cán bộ “ngồi im” lấy lý do là có sự chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật nên họ rất dễ vô tình phải hứng chịu trách nhiệm hình sự. Họ tự tin cho rằng không làm thì không sai, không sai thì không thể mất chức, cùng lắm là đứng trước cuộc họp kiểm điểm do thiếu nhiệt huyết, còn hơn là đứng trước vành móng ngựa (!). Họ chỉ nghĩ cho bản thân, bo bo giữ chiếc ghế, đẩy khó khăn cho người dân và làm đứt gãy các hoạt động kinh tế, sản xuất.

Lấy ví dụ chuyện giải ngân vốn đầu tư công. Vốn đã được Nhà nước phân bổ, có dự án rồi nhưng cán bộ đùn đẩy trách nhiệm khiến cho vốn không giải ngân được, công trình không hoàn thành, gây hậu quả không thể đo đếm được.

Đảng và Nhà nước đã có nhiều văn bản chỉ đạo, quy định về tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Thủ tướng Chính phủ cũng nhiều lần đôn đốc các cấp, các ngành tích cực, chủ động trong thực thi nhiệm vụ. Kết quả có thể nhìn thấy rõ qua các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội của đất nước vẫn tiếp tục có những tiến triển đáng ghi nhận.

Dù “căn bệnh sợ trách nhiệm” mới xuất hiện ở một số cán bộ các cấp nhưng nếu như không kịp thời ngăn chặn, nó sẽ âm thầm lây lan, có nguy cơ trở thành “dịch”, cản trở sự phát triển của đơn vị, địa phương, rộng ra là của cả nước. Bởi vậy, Quy định số 148-QĐ/TW là một giải pháp chủ động của Đảng để ngăn chặn những biểu hiện mới nảy sinh của một bộ phần cán bộ, đảng viên trong quá trình phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước.

Theo Quy định số 148-QĐ/TW của Bộ Chính trị, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị (gọi tắt là người đứng đầu cơ quan) có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khái niệm cán bộ ở đây là cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị và đơn vị sự nghiệp công lập.

Nội dung đáng lưu ý trong Quy định số 148-QĐ/TW nằm ở khoản 2, Điều 4, Chương II: Cán bộ cố tình trì hoãn, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, không thực hiện công việc thuộc thẩm quyền theo chức năng, nhiệm vụ được giao sẽ bị tạm đình chỉ công tác.

Theo quy định mới này, câu thần chú “ngồi im để an toàn” hết thiêng. Trước khi bị cách chức chính thức thì cán bộ “ngồi im” sẽ nhanh chóng bị tạm đình chỉ công tác.

Sự ra đời của Quy định số 148-QĐ/TW là cần thiết nhằm giải quyết ngay lập tức việc ùn tắc, đứt gãy trong các hoạt động dân sự, kinh tế - xã hội. Lý do là quy trình hiện nay về việc giáng chức, cách chức, cho thôi việc đối với cán bộ, công chức, viên chức đòi hỏi nhiều thủ tục và thời gian. Trong khi đó, mỗi giờ, mỗi ngày đều quý giá đối với sự phát triển của đất nước.

Thời hạn để ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ trong trường hợp cần thiết theo Quy định số 148-QĐ/TW rất ngắn - không quá 15 ngày làm việc, nếu phải gia hạn tối đa không quá 15 ngày làm việc.

Thủ tục tạm đình chỉ công tác cũng nhanh chóng: Khi xác định có căn cứ tạm đình chỉ công tác được quy định tại Điều 4, Điều 5 của Quy định này thì chậm nhất sau 2 ngày làm việc, cơ quan (bộ phận) tổ chức cán bộ (nhân sự) có trách nhiệm tham mưu người đứng đầu ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ.

Chậm nhất sau 2 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề xuất của cơ quan (bộ phận) tổ chức cán bộ (nhân sự), người đứng đầu ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ.

Quyết định tạm đình chỉ công tác được gửi đến cán bộ bị tạm đình chỉ công tác, công bố trong cơ quan, đơn vị sử dụng cán bộ và gửi đến cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan.

Dư luận trong và ngoài bộ máy nhà nước đồng tình với Quy định số 148-QĐ/TW bởi không có lý do để bao biện cho “căn bệnh sợ trách nhiệm”. Các trường hợp “ngồi im” thường rơi vào ba nguyên nhân: Nhận thức kém về trách nhiệm công vụ; sa sút về đạo đức, thờ ơ trước nhu cầu của người dân và đòi hỏi của xã hội; thiếu bản lĩnh, trình độ chuyên môn nên e ngại, không dám thực thi nhiệm vụ.

Quy định 148-QĐ/TW còn là một cách gián tiếp khuyến khích cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao./.

NVH41 - CẢNH GIÁC TRƯỚC CÁC THỦ ĐOẠN XUYÊN TẠC CÔNG TÁC NHÂN SỰ CỦA ĐẢNG

 

Chống phá, xuyên tạc về vấn đề nhân sự là một thủ đoạn mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tiến hành thường xuyên trước mỗi kỳ Đại hội. Trong quá khứ, tại Đại hội XII, các đối tượng chống đối đã lập, điều hành trang mạng với tên gọi “Chân dung quyền lực” để tung ra các thông tin đồn đoán nhân sự, xuyên tạc vấn đề tổ chức cán bộ.

Hiện tại, khi Đại hội XIII của Đảng đang được chuẩn bị, các đối tượng lại tiếp tục lập, điều hành nhiều trang mạng xã hội mang màu sắc chính trị để làm nơi đăng tải, chia sẻ những thông tin, luận điệu lệch lạc, xuyên tạc công tác tổ chức đại hội nói chung, cũng như công tác nhân sự của Đảng ta nói riêng. Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và các đối tượng phản động, cơ hội chính trị diễn ra một cách quyết liệt, thể hiện ý thức chống đối sâu sắc.

Nhận diện hoạt động chống phá công tác nhân sự của Đảng

Công tác nhân sự là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Đảng ta luôn xác định công tác cán bộ là khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đặc biệt, thời điểm hiện tại được xác định là giai đoạn chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hoà bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau. Chính bởi vậy, công tác cán bộ trước thềm Đại hội XIII càng là vấn đề được Đảng ta ưu tiên hàng đầu.

Để phục vụ công tác cán bộ cho nhiệm kỳ tới, thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã điều động một số cán bộ tại địa phương về Trung ương và ngược lại.

Việc luân chuyển, điều động cán bộ là hoàn toàn bình thường, phục vụ công tác cán bộ trong giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, qua lăng kính của các đối tượng cơ hội chính trị, nó đã bị biến tướng trở thành kết quả của những “đấu đá quyền lực” giữa các “phe cánh” trước thềm Đại hội. Thậm chí, có đối tượng còn cho rằng, việc luân chuyển cán bộ như trên chỉ là hành động “bắt cá leo cây”, không nhằm mục đích rèn luyện cán bộ, mà là “an bài”, thỏa hiệp giữa các “nhóm lợi ích” trong Đảng.

Lập luận của các đối tượng đưa ra là hoàn toàn vô căn cứ. Tuy nhiên, dưới sự dẫn dắt, hướng lái thông tin theo kiểu “dây cà ra dây muống”, “lập lờ đánh lận con đen”, những luận điệu này đã tiếp cận, tác động đến không ít người.

Không chỉ dừng lại ở việc đồn đoán nhân sự trước thềm Đại hội hay xuyên tạc, quy chụp công tác nhân sự chỉ là kết quả của những màn “đấu đá nội bộ”, “tranh giành quyền lực”, các thế lực thù địch, chống đối còn tấn công công tác nhân sự của Đảng bằng cách quy chụp, cho rằng nhân sự của Đảng ta chỉ là “sự áp đặt từ trên xuống”.

Các đối tượng này vu khống một cách trắng trợn rằng, trong thể chế chính trị một Đảng lãnh đạo như tại Việt Nam, việc lựa chọn nhân sự sẽ không bảo đảm dân chủ, không thể lựa chọn được người đủ năng lực và đạo đức để lãnh đạo đất nước. Ngoài ra, những kẻ này còn tung ra luận điệu rằng, cơ chế lựa chọn cán bộ tại Việt Nam thiếu minh bạch nên đã tạo ra chỗ trống cho những “chuyên gia hối lộ” ngồi vào vị trí lãnh đạo.

Công tác nhân sự được thực hiện một cách nghiêm túc, khoa học

Bác Hồ từng dạy: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa…”.

Hơn ai hết, Đảng ta nhận thức rất rõ về vị trí, vai trò của bản thân mình. Để giữ vững vị trí là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng ta không ngừng tự đấu tranh, rèn luyện để ngày càng hoàn thiện hơn. Trong đó, vấn đề nhân sự được đặc biệt chú trọng vì cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Chính bởi vậy, việc lựa chọn nhân sự được Đảng đặc biệt quan tâm, chỉ đạo tiến hành một cách cẩn trọng, khách quan, bảo đảm dân chủ để có thể lựa chọn được cán bộ đủ đức, đủ tài tham gia lãnh đạo đất nước.

Những luận điệu tiêu cực về công tác cán bộ mà các đối tượng rêu rao ở trên là hoàn toàn sai trái, phi thực tế. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết quan trọng để điều hành, định hướng, chỉ đạo về công tác cán bộ, như: Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và ngang tầm nhiệm vụ; Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng…

Rõ ràng, công tác nhân sự tại Đại hội Đảng các cấp không phải là “sự áp đặt từ trên xuống” hay thiếu dân chủ như những gì các thế lực thù địch, chống đối đang hô hào. Để lựa chọn nhân sự tham gia cấp ủy, chúng ta phải trải qua một quy trình cân nhắc, đánh giá, lựa chọn kỹ lưỡng. Đơn cử như việc lựa chọn nhân sự cấp ủy cấp tỉnh giai đoạn 2020 – 2025 phải trải qua 5 bước theo quy định tại Phụ lục số 4, Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị về đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Trong đó, những tiêu chuẩn cơ bản của một cán bộ lãnh đạo cần có là tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, sức chiến đấu cao; có năng lực, trình độ, đạo đức.

Công tác nhân sự nói chung và công tác nhân sự trong nhiệm kỳ 2020 – 2025 nói riêng đều phải bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, mà trực tiếp là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy, Ban Thường vụ cấp ủy. Việc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ không hề gây ra sự thiếu minh bạch trong công tác cán bộ, hay ngăn trở những người có năng lực lãnh đạo tham gia vào công việc của đất nước như một số đối tượng chống đối đang tung ra. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ là một vấn đề tất yếu, khách quan để bảo đảm đất nước phát triển đúng định hướng.

Nếu không có sự lãnh đạo thống nhất về công tác cán bộ của Đảng, nếu chung ta lơ là, mất cảnh giác khi lựa chọn cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo cấp cao thì cũng đồng nghĩa với việc chúng ta tạo kẽ hở cho những kẻ chống đối có cơ hội chui sâu, leo cao vào tổ chức bộ máy Nhà nước, hình thành lực lượng đối lập về chính trị ngay trong lòng đất nước.

Quay ngược lại quá khứ, nhìn vào sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô (nơi được coi là hệ thống thành trì của chủ nghĩa xã hội trên thế giới), có thể thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến hậu quả này là do công tác cán bộ dẫn đến việc quyền lực của Đảng Cộng sản bị giao vào những người “nối giáo cho giặc”.

Vì vậy, trong công tác cán bộ, Đảng, Nhà nước ta luôn luôn tiến hành cẩn trọng, theo một quy trình chặt chẽ, đúng Điều lệ, quy chế, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Mục tiêu cao nhất trong công tác cán bộ là lựa chọn đúng những người thực sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức và lối sống, năng lực trí tuệ và trình độ tổ chức thực tiễn, được tín nhiệm để đủ sức tiếp nối cha ông lãnh đạo sự nghiệp cách mạng./.

NVE41 - THỰC CHẤT LUẬN ĐIỆU ĐÒI THỰC HIỆN “ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, CƠ HỘI CHÍNH TRỊ

 

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt một thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước và mở đầu thời kỳ cả dân tộc đi theo ngọn cờ của Đảng. Với đường lối đúng đắn, dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử loài người, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết được tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân, phong kiến vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thế nhưng, bất chấp thực tế lịch sử mang tính quy luật, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trong thời gian qua đã tìm mọi cách, dùng nhiều thủ đoạn để tuyên truyền, phát tán các tài liệu phản động như là “thể chế độc đảng toàn trị”, nào là “sai lầm đường lối” của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường xây dựng CNXH… nên “xã hội không có tự do, dân chủ”; đã đến lúc Đảng Cộng sản Việt Nam cần tự kết thúc vai trò lịch sử của mình, vì chỉ có “đa nguyên, đa đảng” thì Việt Nam mới có dân chủ thực sự, có được sự giàu có, ấm no. Thậm chí, chúng còn hô hào: Tình hình thế giới và trong nước đã chín muồi để người dân Việt Nam chọn lựa cho mình một lực lượng chính trị khác thay thế cho Đảng Cộng sản.

Với chúng, không gì khác hơn là nhằm hạ thấp uy tín của Đảng, tiến tới thúc đẩy việc xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua những cái gọi là “tâm thư”, “tâm nguyện”, chúng ra sức bôi nhọ, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cùng với dã tâm “đánh tráo lịch sử”, “đổi trắng thay đen”, chúng trắng trợn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội thông qua những nội dung chỉ trích, “kiến nghị” đòi hỏi vô lý, phi thực tế. Mục tiêu cuối cùng của chúng là lừa mị, kích động, hòng làm chệch hướng con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là xây dựng chế độ XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nhưng những luận điệu này, về bản chất chính trị là phản động nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta, về nhận thức là phản khoa học, chủ quan, phi thực tiễn. Như trên đã nói, việc Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò là lực lượng chính trị lãnh đạo xã hội mang tính quy luật, là sự giao phó của lịch sử, của cách mạng Việt Nam thông qua quá trình sàng lọc, lựa chọn một cách đúng đắn. Đây cũng là sự lựa chọn mang tính lịch sử của nhân dân trong quá trình đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, với nhiều hy sinh, mất mát mới có được.

          Chính vì vậy, mọi luận điệu đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải “từ bỏ vị thế lãnh đạo”, “thay đổi Cương lĩnh xây dựng đất nước”, phải “chuyển đổi thể chế chính trị”… đều là phản động, phi lý, với mục tiêu không có gì khác là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện “đa nguyên chính trị”, chuyển hóa thể chế CHXHCN Việt Nam sang mô hình xã hội theo kiểu phương Tây.

Rõ ràng, chiêu bài “đa nguyên, đa đảng” của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chỉ là nhằm thực hiện mưu đồ chính trị đen tối của chúng. Song với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, sự đoàn kết thống nhất ý chí và hành động, niềm tin của nhân dân ta vào Đảng ngày càng được củng cố, nhận thức chính trị được nâng cao thì chúng ta sẽ đập tan những âm mưu, thủ đoạn của chúng.

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của chúng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, trong đó nhấn mạnh, cần chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị ngăn chặn từ sớm từ xa, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đặc biệt, cần chỉ rõ những biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó có biểu hiện “đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”./.

NVI42 - CÁC THỦ ĐOẠN NÓI XẤU, XUYÊN TẠC VỀ TỶ LỆ NỮ GIỚI TRONG CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

  Ngày 01/11/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chính trường Việt Nam ít chỗ cho phụ nữ”, nội dung nói xấu, xuyên tạ...