Sự
phát triển mạnh mẽ của các nền tảng công nghệ đã đưa nhân loại ngày càng xích
lại gần nhau hơn trong mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những
tích cực tiến bộ ấy thì một số thế thế lực thù địch đã lợi dụng các diễn đàn,
mạng xã hội để thực hiện những mưu đồ chính trị cá nhân của mình. Một trong số
đó là tổ chức của Hội Anh Em Dân Chủ (HAEDC) - một tổ chức người Việt lưu vong
ở hải ngoại. Họ thường xuyên đưa ra những luận điệu xuyên tạc, cắt dán, bóp méo
sự thật nhằm chống phá lại chủ trương, chính sách về tôn giáo, tự do tôn giáo
của Việt Nam với mục đích bôi nhọ, kích động hòng chia rẽ khối đại đoàn kết
toàn dân tộc Việt Nam.
Nhận diện những thủ đoạn xuyên
tạc về tự do tôn giáo
Ngay trong Sắc lệnh số 234/SL,
ngày 14-6-1955 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, xác định: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do
thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân
dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo”.
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước
Việt Nam mang bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Ở Nhà nước ấy dưới sự lãnh đạo của Đảng luôn thực hiện nhất quán
việc tôn trọng, bảo đảm cũng như thúc đẩy các quyền về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của người dân. Đây là
một nguyên tắc hoạt động của Nhà nước, được ghi nhận trong Hiến pháp của đất
nước.
Những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo đã từng bước giải quyết và đáp ứng
được nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân Việt Nam, được cộng đồng quốc tế ghi
nhận và đánh giá cao. Ấy vậy mà HAEDC với cái nhìn lệch lạc, phiến diện một
chiều, thiếu tính xây dựng, vì mục đích chính trị đã và đang bóp méo, xuyên
tạc một cách trắng trợn về nhân quyền, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
tự do không tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Họ đã lợi dụng việc tự do về
tôn giáo ở Việt Nam cùng với vụ việc một số đối tượng khủng bố ở Đắk Lắk đã đưa
ra những thông tin sai sự thật, thậm chí là vu cáo về tình hình tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Chúng vu cáo Đảng, Nhà nước
và dân tộc Việt Nam với luận điệu: Việt Nam tổ chức đàn áp tôn giáo. Sự việc ở
Đắk Lắk là sự nổi dậy, mâu thuẫn về tôn giáo, "đàn áp tôn giáo",
"vi phạm quyền con người trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo" hướng tới mục tiêu “chính trị hóa vấn đề tôn giáo”, “độc tài
cai trị”, “đàn áp tôn giáo”, khống chế không gian phát triển của tôn giáo, kích
động tín đồ đòi “tự do tôn giáo” và “quyền tự trị dân tộc”, “kiểm soát tôn
giáo”… để từ đó, vấn đề tôn giáo trở thành cách thức để chúng tập hợp
tín đồ chống phá đất nước, kêu gọi các lực lượng bên ngoài can thiệp vào
tình hình nội bộ của Việt Nam.
Chúng lập luận và nêu ra những
yêu sách như đặt tôn giáo đứng ngoài pháp luật, thậm chí trên pháp luật,
không chịu sự quản lý của Nhà nước để bôi nhọ hình ảnh của Việt Nam,
từ đó mục đích của chúng là coi Việt Nam là quốc gia vi phạm về tôn giáo, “đàn
áp tôn giáo”, vi phạm nhân quyền… Điều này gây khó khăn cho Việt Nam
trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Hoạt động của HAEDC là câu kết
với một số phần tử cơ hội chính trị trong nước trực tiếp hoặc gián tiếp câu kết
với nhau chống phá vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Chúng lợi dụng mạng xã hội, sự
tha hóa của một số ít cán bộ trong tổ chức bộ máy Nhà nước, lồng ghép các vấn
đề một cách khiên cưỡng, hay lợi dụng sự khó khăn về địa hình, kinh tế ở một số
vùng nông thôn, miền núi, sự thiếu hiểu biết pháp luật của một bộ phận người
dân là đồng bào các dân tộc thiểu số có trình độ dân trí chưa cao để phát tán
tài liệu thông tin sai sự thật trên không gian mạng, nhận tài trợ tiền để tuyên
truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn
giáo để gây bất ổn về an ninh trật tự tại địa phương...
Những minh chứng “chân lý” phản
bác luận điệu xuyên tạc
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn
luôn thực hiện nhất quán chính sách về tôn giáo gắn liền với chính sách đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Ngay trong Nghị quyết số
25-NQ/TW ngày 12-3-2003 của BCH Trung ương Đảng khoá IX về công tác tôn giáo,
Đảng ta đã xác định: “Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết
đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy
những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người
có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì
lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia” và “đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật,
bình đẳng trước pháp luật”.
Trong Văn kiện Đại hội XIII,
Đảng ta cũng xác định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện
tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù
giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt
đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm
mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
cản trở sự phát triển của đất nước” [5, tr.51], “Kiên quyết đấu
tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống
phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại
đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [5, tr.171].
Theo quy định của pháp luật tại
Điều 24, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Mọi người dân không
giới hạn về tuổi tác, giới tính, thành phần dân tộc đều có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo. Nhà nước đảm bảo
cho hoạt động của người dân và các tổ chức tôn giáo bằng các quy định của pháp
luật. Nhà nước cũng nghiêm cấm việc lợi dụng các vấn đề tôn giáo để vi phạm
pháp luật.
Trên bình diện hợp tác quốc tế
về tôn giáo, Việt Nam đã chủ động tham gia ký kết và phê chuẩn hầu
hết các công ước quốc tế, nghị định thư, đối thoại quốc tế liên
quan đến quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo như: cơ chế đối thoại dân chủ, nhân quyền, tôn giáo với các
đối tác Hoa Kỳ, EU; bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia theo cơ chế
rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III, Báo cáo quốc gia về thực
thi Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) tại
Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc. Cùng với đó, Việt Nam tích cực
cung cấp và minh bạch thông tin về thành tựu bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Theo số liệu thống kê tính đến
cuối năm 2022, chính quyền các cấp đã công nhận 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo
khác nhau, với trên 27,2 triệu người có đạo, trên 53 nghìn chức sắc, khoảng 148
nghìn chức việc, 29.718 cơ sở thờ tự; cấp phép xây dựng, sửa chữa, cải tạo
cho 486 cơ sở thờ tự tôn giáo, tăng 60 cơ sở so với năm 2021; cấp đăng ký sinh
hoạt tôn giáo tập trung cho 183 điểm nhóm; cấp quyết định xuất bản cho 140 xuất
bản phẩm trong các lĩnh vực về tôn giáo, với trên 684,2 nghìn bản in [6].
Kết nạp người có đạo vào Đảng
Theo quy định Điều lệ
Đảng, công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện
thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên,
hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú,
được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng [3, tr.8].
Như vậy, việc vào Đảng là sự tự
nguyện mà ở trong đó không có sự phân biệt người vào Đảng theo các tiêu chí về
tôn giáo, giai cấp, tầng lớp xã hội, giới tính, dân tộc... Trong các quy định
của Đảng, công dân Việt Nam không phân biệt ở trong nước hay ở nước ngoài đủ về
độ tuổi, ưu tú về năng lực, có phẩm chất chính trị tốt thực sự trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng, được quần chúng tin yêu và rèn luyện, trung thành
với vận mệnh của dân tộc, có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, dám dấn
thân vì lợi ích chung của Nhân dân mà không phân biệt về tôn giáo, dân tộc,
trình độ khi đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Riêng đối với người có tôn giáo
mà cụ thể ở đây là “người Công giáo” hay “người có đạo”, Đảng ta đã ban
hành Quy định 123-QĐ/TW, ngày 28-9-2004 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số
40-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương ngày 8-4-2005 về đảng viên là
“người có đạo” đã giải quyết một cách căn bản nhất nhận thức của các cấp ủy,
đảng viên về kết nạp đảng viên đối với “người có đạo”.
Sau khi Nghị quyết ra đời như
một ngọn đèn pha soi đường cho công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng quần
chúng ưu tú là “người có đạo” để tạo nguồn phát triển đảng viên, nhất là ở các
tỉnh có đông đồng bào Công giáo như Nam Định, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh...
Để cụ thể hóa Nghị quyết của
Đảng, nhiều địa phương đã xem xét kết nạp quần chúng là “người có đạo” vào Đảng
tại các giáo phận đã được Nhà nước công nhận, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo
quy định và yêu cầu thực tế của công tác xây dựng Đảng tại địa phương, cơ quan,
đơn vị; có uy tín và khả năng thuyết phục, vận động quần chúng, không vi phạm
tiêu chuẩn về lịch sử chính trị và chính trị hiện nay theo quy định.
Trong thực tế, những cán bộ,
đảng viên là “người có đạo” luôn là người có phẩm chất trong sáng, luôn đi đầu
và thực hiện tốt lý tưởng cách mạng cũng như hoàn thành tốt những nhiệm vụ của
người có đạo. Những đảng viên này luôn thể hiện sự kiên trung với sự nghiệp
cách mạng của Đảng, lấy sự tự hào của “người có đạo” là lẽ sống cho họ hoạt động
với phương châm “tốt đời đẹp đạo”, để từ đó họ đã khẳng định rõ vai trò, trách
nhiệm của mình đối với tổ chức đảng, đối với nhân dân, đối với tôn giáo của
mình.
Đảng viên là “người có đạo”
cùng với những chức sắc trong Công giáo luôn làm tròn cả nhiệm vụ với Đảng và
với tôn giáo. Đây là những kênh thông tin là cầu nối gắn bó đồng bào với Đảng,
chính quyền, đoàn thể. Họ là những người tuyên truyền, vận động quần chúng nhân
dân, đặc biệt là đồng bào có tôn giáo hiểu, tin tưởng và thực hiện; lắng nghe
những ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo, phản ánh, tham mưu với Đảng
và Nhà nước nắm bắt, giải quyết kịp thời. Đồng thời, họ cũng là người đi đầu và
thực hiện đối với đạo của mình, hướng tới lý tưởng “tốt đời, đẹp đạo”, được
quần chúng nhân dân yêu mến, được tổ chức đảng tin tưởng, đánh giá cao.
Đặc biệt, đảng viên là người
Công giáo và các đảng viên không theo tôn giáo nào trong tổ chức đảng luôn thể
hiện sự đoàn kết, đồng thuận, tin yêu giúp đỡ lẫn nhau hướng tới thực hiện tốt
nhiệm vụ của tổ chức giao. Sự hoà hợp của niềm tin, lý tưởng giữa Đảng và Dân
tộc, giữa chính trị và tôn giáo, vì mục đích, lợi ích chung của quốc gia, dân
tộc Việt Nam là một bằng chứng thép vạch trần sự dối trá, vu cáo về công tác
tôn giáo của HAEDC đối với dân tộc Việt Nam.
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn
thực hiện chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng quy
định của pháp luật. Đảng không phân biệt người vào Đảng theo các tiêu chí về
giới tính, dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, xã hội và luôn tạo điều kiện
cho đội ngũ đảng viên là “người có đạo” được tham gia sinh hoạt tôn giáo, hoạt
động tôn giáo và đảm nhận các chức vụ trong tổ chức tôn giáo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét